Thứ Bảy, 20 tháng 5, 2017

Về Bài * Thuật Hoài (Đặng Dung): Bài viết của Đỗ Chiêu Đức

                                          Thuật Hoài  
                                                Đặng Dung 

                  Image result for Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
 
       述 懷                         THUẬT HOÀI

世事悠悠奈老何       Thế sự du du nại lão hà !
無窮天地入酣歌       Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
時來屠釣成功易       Thời lai đồ điếu thành công dị,
運去英雄飲恨多       Vận khứ anh hùng ẩm hận đa. 
致主有懷扶地軸       Trí chúa hữu hoài phù địa trục,
洗兵無路挽天河       Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
國讎未報頭先白       Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
幾度龍泉戴月磨       Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma !


               Xin được dịch nghĩa từng câu như sau :


     1. Việc đời còn dằng dặc mà ta đã già mất rồi, biết sao đây !

     2.Trời đất mênh mông như đắm chìm trong cuộc rượu hát ca.

     3.Khi gặp thời, người làm nghề hàng thịt, kẻ câu cá cũng dễ dàng thành công,     

     4.Lúc lỡ vận, nhiều bậc anh hùng cũng  đành phải nuốt hận mà thôi!    

     5. Hết lòng giúp chúa, những mong đỡ lại trục trái đất (xoay lại thời cuộc ).

     6. Rửa vũ khí vì đã hết đường, nhưng làm sao kéo con sông Ngân xuống được (để mà rửa!)   

     7. Thù nước còn chưa trả  mà mái tóc đã sớm bạc phơ,   

     8. Biết bao phen mang gươm Long Tuyền ra mài dưới bóng trăng rồi!


        Câu 6 có xuất xứ như sau :


        Điển tích lấy từ hai câu thơ trong bài Tẩy Binh Mã (Rửa khí giới) của Đỗ Phủ:


        An đắc tráng sĩ vãn thiên hà;            安得壯士挽天河,
        Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng.  淨洗甲兵長不用.


Dịch nghĩa:

           Làm sao có được một tráng sĩ nào đó kéo nước sông Ngân xuống (dịch chữ Thiên hà); Rửa sạch khí giới và áo giáp, mãi mãi không dùng đến nữa.  (Ý chỉ có người tài giỏi, dẹp yên chiến tranh để dân chúng được an hưởng thái bình, nhưng mà... thực tế thì đâu có được người như thế!)


DIỄN NÔM :
                      THUẬT là Kể lại, là Bày tỏ.
                      HOÀI là Vòng tay, là Lòng dạ.
                      THUẬT HOÀI là

 
                 BÀY TỎ NỖI LÒNG


           Thế sự còn vương đã lão rồi,
           Đất trời say khước hát ca chơi.
           Có thời câu cá thành công dễ,
           Hết vận anh hùng nuốt hận thôi.
           Giúp chúa những mong xoay lại cuộc,
           Bãi binh còn muốn kéo sông trời.
           Quốc thù chưa báo đầu đà bạc,
           Mài mãi Long Tuyền dạ chẳng nguôi!


               Đỗ Chiêu Đức diễn nôm




* Bản dịch Trầm Vân 

Bày Tỏ Nỗi Lòng


Việc đời chưa dứt đã già rồi

Nâng chén tiêu sầu rượu đỏ môi

Nghèo khó gặp thời lên mộng dễ

Anh hùng lỡ vận nuốt hờn thôi
Giữ lòng giúp Chúa mong xoay cuộc
Nung dạ vung đao muốn kéo trời
Chưa báo quốc thù đầu đã bạc
Long Tuyền mài mãi ánh trăng trôi


          Trầm Vân.



--Bản dịch của Mailoc-

Lê thê thế sự, đã già mất!

Rượu ngà ngà trời đất cùng say .

Lên voi, đê tiện thời may ,

Anh hùng tàn vận đắng cay muôn phần .

Vai phò chúa mong vần trục đất ,

Nước thanh bình rửa giáp sông Ngân .

Quốc thù chưa trả bạc đầu!

Dưới trăng loang loáng bao lần mài gươm .

          Mai Lộc
         Bài thơ đã mở đầu  bằng một câu bi phẫn của thi nhân tráng sĩ, ngao ngán cho việc đời còn ngổn ngang, mà tuổi mình đã già mất rồi  Bi phẫn rồi lại ngậm ngùi, thôi thì chỉ còn chén rượu say say nghêu ngao với đất trời. Gợi hình nhất ở hai câu cuối: hình ảnh một tráng sĩ bạc đầu mài gươm loang loáng dưới ánh trăng. Một bài thơ đã khiến bao nhiêu người cảm khái!


ĐẶNG DUNG  sinh và mất năm nào không rõ chỉ biết ông người huyện Can Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ ông là Đặng Tất làm quan triều Trần. Khi quân Minh do Trương Phụ xâm chiếm nước ta, năm 1407 Đặng Tất cùng đồng liêu là Nguyễn Cảnh Chân theo giúp Giản Định Đế chống quân Minh . Nhưng Giản Định Đế nghe lời xiểm nịnh giết cả Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Đặng Dung và Nguyễn cảnh Dị, con của Nguyễn cảnh Chân vì đại cuộc, quên thù nhà, đem quân từ Thuận Hóa về Thanh Hóa, tôn Trần Qúy Khoách lên làm vua, đó là Trùng Quang Đế, để tiếp tục sự nghiệp chống Minh. Chiến công đáng ghi nhớ trong đời ông là một lần đánh úp doanh trại quân Minh trong một đêm tháng 9 năm 1413, ông và một tướng khác là Nguyễn Súy cầm đầu một toán xung kích nhảy lên thuyền giặc định bắt sống tướng Minh, nhưng Trương Phụ nhờ đêm tối đã thoát hiểm.
Thời bấy giờ nghĩa sĩ  tham gia kháng chiến rất đông như kẻ sỉ cương cường  Nguyễn Biểu (*) tráng sĩ Nguyễn Súy v.v. nhưng nghiêp nhà Trần đến hồi suy, các cuộc khởi nghĩa đều thất bại, Trùng quang Đế và ông đã bị bắt. Trên đường giải về Yên Kinh ông và nhà vua đã nhảy xuống sông tuẫn tiết.

                                   Đỗ Chiêu Đức

Bài Cảm ý  của Mai Xuân Thanh.
Mài Kiếm Dưới Trăng

Thế sự đa đoan tuổi trọng này
Mù trời tối đất uống lăn quay
Gặp thời ngư phủ, lên như gió
Lỡ vận anh hùng ngậm đắng cay
Cứu nước dang tay xoay đại cục
Bãi binh rửa giáp dãi Ngân dài
Quốc thù chưa trả nay đầu bạc
Dưới nguyệt Long Tuyền kiếm mãi mài !


1 nhận xét:

Tạp Ghi và Phiếm Luận: Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ (Dỗ Chiêu Đức)

  Tạp Ghi và Phiếm Luận :                Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ                                       Ăn x ổi  ở th ì,...