Truyện của Thái Sinh
“Chị chắp tay bảo tôi: Tôi xin anh đừng kể chuyện này với bất cứ ai…
Giống như chị, gần hai chục năm nay tôi như người bị ma ám, chỉ khi kể được chuyện này ra, lòng tôi mới cảm thấy nhẹ nhàng…”
Hai tuần nay chiều nào San cũng trở về sớm hơn
mọi ngày. Căn nhà của họ nằm ở ven rừng bên cạnh con suối nhỏ nước trong
vắt, mùa thu vàng rực hoa cúc dại. Kể từ ngày Thuỷ về phép đến nay đã
được hơn ba tháng, đúng ra Thuỷ trả phép vào đầu tháng vừa rồi, vậy mà
đến nay vẫn chưa thấy tăm hơi Thuỷ đâu cả. Mỗi lần đi làm về nhìn cánh
cửa vẫn đóng San lại thở dài ngao ngán. Chị mơ hồ cảm thấy lần này Thuỷ
không trở lại lâm trường, trước ngày về phép có lần Thuỷ nói:
-Chị San ơi, thế là mùa thu sắp về rồi đấy. Vậy
là chị em mình ở đây đã được sáu năm hai tháng. Sáu năm chưa để một lần
cháy rừng mà sao ông Tân chẳng cho chị em mình chuyển vùng nhỉ? Em sợ
cái mùa hoa cúc dại lắm rồi. Trời xanh thế kia, mà sao cái màu hoa lại
cứ vàng rực lên thế?
San không đáp, chị nhớ cách đây sáu năm khi chị
và Thuỷ được phân công về tiểu khu rừng này, nhìn vạt hoa cúc dại nở dọc
bờ suối Thuỷ không giấu được niềm vui.
-Ô kia hoa cúc! Chị San ơi, những bông hoa cúc
rừng mới to và đẹp làm sao, thế là chị em mình tha hồ có hoa cắm. Nhìn
cánh rừng hoa này khối đứa chết thèm nhé…
Chiều ấy Thuỷ hái về một ôm hoa to tướng cài lên
khắp vách nhà, cô vừa làm vừa khe khẽ hát. Ngày ngày họ đi sâu vào rừng
để ngăn chặn kịp thời những kẻ khai thác trộm gỗ, trồng giặm lại những
chỗ vừa khai thác, phát đường băng cản lửa, thống kê một số loài cây gỗ
quí hiếm… Suốt năm, suốt tháng quanh đi quẩn lại cũng chỉ có chừng ấy
công việc. Mỗi mùa thu đến nhìn màu hoa cúc dại nở sáng cả cánh rừng
lòng San không khỏi nôn nao.
Thế là sáu mùa thu đã trôi qua, căn nhà của họ đã
đôi lần thay lại mái, nhìn những đồ vật từ cái cuốc, con dao đến chiếc
hòm, tấm chăn… tất cả tưởng chừng như đều đã cũ kỹ, già nua. Con dao,
cái cuốc lưỡi thì mòn vẹt, còn tấm chăn, cái hòm đen xỉn, đến cả những
bức tranh dán trên vách nhà cũng đã bạc phếch. Thuỷ không còn vui nhộn
như ngày xưa, cô bé trở nên ít nói, hoa cúc rừng chẳng ai thèm hái cứ
vàng rực nom đến nhức mắt. Hoa nở rồi hoa tàn, chẳng ai để ý và háo hức
chờ đợi như dạo nào mỗi khi mùa thu đến.
Mùa mưa ở rừng thật khủng khiếp, mưa liên miên,
mưa rền rĩ sáu tháng trời, bầu trời rừng cây lúc nào cũng nhầu nhĩ nước,
mở cửa ra là gặp mưa, đêm nằm nghe mưa rơi thao thác ngoài rừng buồn
đến nẫu ruột. Chăn màn, quần áo của họ lúc nào cũng ẩm ướt, giặt phơi
hàng tuần không khô. Họ chẳng còn cách nào, phải hong trên lửa. Mới qua
thời chiến tranh, lại ở trong rừng cái gì cũng khan hiếm, quần áo giặt
thiếu xà phòng cứng như mo nang, mùi khói hôi xì ám vào tận da thịt.
Mùa mưa là thế còn mùa đông rét cứ ngằn ngặt, căn
nhà của họ lúc nào cũng âm ỉ khói. Khói và sương mùa luôn vây bủa quanh
họ. Đôi lúc San tự hỏi: Nếu không có ngọn lửa kia chẳng biết họ sẽ sống
ra sao nhỉ? Đêm đêm Thuỷ ghì chặt chị vào lòng, bàn tay thô nháp của nó
lần rờ lên khắp người chị, có lần chị hất mạnh tay nó ra, nhưng nhiều
hôm chị cứ mặc kệ nó vần vò trong nỗi đam mê tuyệt vọng. Có bận nó gục
mặt vào ngực chị khóc nức nở:
-Tại sao trời lại sinh ra cái giống đàn bà hả chị? Thật kinh tởm! Họ là những kẻ tham lam chẳng kìm nén những ham muốn của mình…
San chỉ biết thở dài, mọi lời an ủi hay giải
thích đối với nó lúc ấy đều vô ích. Con người ta không thể chạy trốn nổi
mình trong nỗi cô đơn, hãy cứ để cho nó khóc, nước mắt sẽ giúp nó làm
vơi đi nỗi buồn.
Ba tháng một lần San về lâm trường sinh hoạt chi
bộ và nhận chỉ thị mới. Hai lần Thuỷ nhờ San cầm đơn xin chuyển vùng tới
giám đốc, lần nào cũng vậy San đều nhận được lời giải thích.
-Đề nghị của cô ấy là chính đáng, nhưng cô thấy
đấy lâm trường còn người nữa đâu. Nam giới ra mặt trận có mấy người trở
lại… Mấy năm nay trên không cho chỉ tiêu tuyển người, bởi thế tôi biết
lấy ai thay vào đó. Chẳng lẽ cô không làm nổi công tác tư tưởng cho cô
ấy sao?
Kể lại chuyện đó với Thuỷ, con bé bật cười mai mỉa:
-Chúng ta đâu còn là trẻ con nữa, chị đã ba mươi
mốt, em thì đã hai bảy, chẳng bao lâu chúng ta trở thành bà lão ở chốn
rừng này. Lão Tân viện đủ lý do để bắt chị em mình ở đây thêm vài năm
nữa. Bao nhiêu trai tráng của lâm trường đều bị lão đẩy ra ngoài mặt
trận, còn lại toàn những gã dở người, không lé thì lùn, cứ y như một lũ
hề vừa bước từ trên sân khấu xuống. Chị có biết cái Xuân ở Phân trường
ba, chị Hằng ở Phân trường bảy đang nuôi con cho lão Tân đấy ư?
San thở dài cay đắng:
-Chị có nghe mọi người nói thế. Nhưng cái gì cũng phải có bằng cớ, nói điều ấy nhỡ không phải thì tội nghiệp cho họ lắm…
-Còn chị đấy – nó hăm doạ – Chúng ta không tự
chửa đẻ được, chúng ta cần phải có một thằng đàn ông, một thằng đàn ông
đàng hoàng chị ạ…
San rùng mình, chị có cảm giác Thuỷ đã đọc được
sự lo lắng trên gương mặt chị. Mấy tháng nay San không làm chủ được
mình, chị chẳng cần gìn giữ và từ chối Bằng. Có lúc chị hỏi: Vì sao mình
lại yêu Bằng nhỉ? Tình yêu đến với họ giống như một cơn bão. Hôm ấy chị
gặp anh, đúng hơn là nhặt được anh, một cái xác bê bết máu bên cạnh con
đường dẫn sang bên kia biên giới. Chị nghe nói bọn buôn lậu chọn chỗ
này để vận chuyển thuốc phiện, xương da thú, hàng quốc cấm và cả vũ khí
qua đây. Anh và những người đồng đội của đơn vị biên phòng đóng ở mé bên
kia cánh rừng này đã nhiều lần tóm cổ chúng, vì thế anh bị chúng trả
thù. Chị phát hiện và cứu được anh trước khi đồng đội tìm thấy.
Chuyện ấy hẳn San đã quên rồi nếu một chiều kia
Bằng không tìm đến. Hôm đó chị vừa đi làm về, nóng quá chị xuống suối
tắm, vừa cởi quần áo vắt lên cành cây bên bờ suối, San hoảng hốt khi
nhận ra anh đang ngây người nhìn chị, chị hét lên giận dữ:
-Anh làm gì ở đây, ai cho anh nhìn trộm tôi tắm? Anh đi đi, cái Thuỷ sắp về rồi đấy, tôi sẽ kêu toáng lên bây giờ…
-Không, tôi đến đây để cảm ơn cô…
-Anh đi đi! Tôi không biết anh là ai cả… Đừng có vờ vịt, chúng tôi có súng đấy, không phải đùa đâu…
Bằng miễn cưỡng quay lại, anh đi chéo qua mảnh
vườn trước cửa rẽ vào con đường mòn chạy dọc bờ suối khuất lấp dưới
những những vạt hoa cúc dại ngược lên phía đỉnh rừng. San vơ vội quần áo
che lên ngực, trong giây lát chị chợt nhận ra cái dáng người vừa khuất
lấp sau đám hoa cúc dại kia là Bằng, người mà cách đây mấy tháng chị đã
cứu anh thoát khỏi bàn tay thần chết. Nhưng gương mặt anh sao lại xanh
tái như người bị sốt rét lâu ngày? Bằng đến đây có phải chỉ để cảm ơn
mình hay còn việc gì khác? San mặc vội quần áo rồi chạy theo anh.
-Anh Bằng, vừa nãy tôi có lời không phải, xin anh tha lỗi…
-Không, chính tôi mới là người có lỗi. Hẳn cô
biết tôi đến đây để làm gì. lẽ ra tôi phải đến đây cảm ơn cô từ lâu,
nhưng cô đâu biết rằng trước khi cô đến lâm trường này ông Tân đã tới
đồn biên phòng của chúng tôi yêu cầu không để các chiến sĩ tới các đội
yêu đương nhăng nhít, làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất của lâm
trường và tinh thần cảnh giác chiến đấu của bộ đội, bởi tình hình biên
giới đang có rất nhiều diễn biến phức tạp. Vì thế cho đến hôm nay tôi
mới tới đây. Vâng, tôi vô ý quá, cô cho tôi xin lỗi…
San nhìn Bằng ngơ ngác, lần đầu tiên chị được
nghe được điều đó tưởng mình nghe lầm. Chị nhớ lại hôm ấy, khi chị và và
những người lính đưa Bằng về đồn, mọi người trong lâm trường lảng tránh
chị như sợ một sự hệ luỵ nào đó. Bây giờ thì chị đã hiểu, trong các
cuộc họp chi bộ ông Tân đều nêu vấn đề quan hệ như một tiêu chuẩn để đo
phẩm chất người đảng viên. Lặng người trong giây lát, San chợt cười phá
lên:
-Vậy ư, thế thì tôi cóc sợ ông Tân. Còn anh, anh
sợ thủ trưởng của mình hả? Nếu không, chúng ta ngại gì không đến với
nhau? Vâng, tôi yêu anh đấy, anh có chấp nhận tình yêu của tôi không?
San không thể ngờ lúc đó chị lại nói như một con
điên, chị lao vào ngực anh như thể thách thức và bất chấp sự ngăn cấm
của ai đó đã nhân danh này nọ để ngăn cản con đường của họ đến với nhau.
Bây giờ thì San mới thấy lo, nếu Thuỷ không trở
lại đây tức là nó chưa biết chị đang mang trong mình hình hài của Bằng.
Bởi, cứ mỗi chiều chủ nhật chị lại viện cớ vào rừng hái rau, nhặt nấm để
đến với Bằng trên con đường vàng rực hoa cúc dại. San không muốn Bằng
biết mình đã có thai, bởi chị không muốn anh vì thế mà lo lắng. Hơn
tháng sau chị San nhận được thông báo chính thức Thuỷ đã bỏ lâm trường,
điều ấy khiến chị rất buồn. Thuỷ ơi, sao mày lại vội vàng bỏ nơi này mà
đi? Phải chăng tao có lỗi với mày? Mày có biết rằng… ai sẽ giúp tao
trong những ngày sinh nở?
San khéo léo che cái bụng đang lớn dần của mình,
chị ít về lâm trường, ít tới gặp Bằng hơn. Vả lại, những tháng gần đây
tình trạng xâm phạm trái phép biên giới càng trở nên phức tạp, bọn buôn
lậu từ hai phía biên giới hoạt động ráo riết và trắng trợn hơn. Bằng
đang là người mà bọn chúng để ý tới, chúng tuyên bố: Hoặc anh phải để
cho chúng làm ăn, hoặc phải chịu thân tàn ma dại cho đến suốt đời. San
không biết khuyên anh như thế nào, chị chỉ cầu mong vào sự may rủi. Cũng
như chị, anh có công việc của mình, hằng ngày phải đối mặt với hiểm
nguy và mọi sự bất trắc trên đời.
Chị mơ hồ cảm thấy mình đang gieo tai hoạ cho
anh. Nếu anh biết rằng chị đang có thai, điều đó có thể giúp anh đủ nghị
lực dấn bước trên con đường đầy chông gai? Liệu ông Tân có để cho chị
yên, hay ông ta sẽ truy bức chị đến cùng, lúc đó người ta sẽ đối xử với
anh như thế nào nhỉ?
San bắt đầu thấy lo. Hàng ngày chị đi sâu vào
rừng tha thẩn trồng lại những đám cây non vừa chết, hay phát những bụi
cỏ mọc tràn ra đường băng cản lửa đến tối mới trở về để tránh mọi cuộc
gặp gỡ bất ngờ không cần thiết. Cái thai trong bụng chị đã lớn lắm, chị
nghe tiếng chân đạp rất mạnh lên thành bụng, cái ngày ấy đang tới gần.
San lựa trong đám quần áo cũ của chị và của Thuỷ khâu thành những tấm áo
nhỏ xíu: Con ơi, con hãy mặc tấm áo đượm mùi mồ hôi của mẹ đã thấm ướt
mảnh đất này, mai ngày lớn lên rừng sẽ chở che và truyền cho con thêm
sức mạnh. Con sẽ trở thành chàng trai dũng cảm, rừng sẽ kể cho con nghe
về những năm tháng gian khổ của mẹ và cô Thuỷ. Khi đó con sẽ thấy yêu
rừng hơn. Rừng bí ẩn chứa đựng một kho truyện cổ tích của con. Nơi đây
có chú nhím lưng gù biết hát, những con sói già đáng ghét và lũ thỏ
trắng khôn ngoan…
Sớm ấy như mọi ngày San thấy trong người khang
khác, chị đã toan ở nhà. Nhưng chị nhớ có lần nghe mẹ nói người phụ nữ
có mang chớ có ngồi lâu, phải luôn vận động mới đẻ dễ. Mẹ chị là người
khó đẻ, bà phải vật vã ba ngày mới sinh được chị. Lần đầu tiên chửa đẻ,
San không biết khi đó có đau đớn như mẹ mình ngày xưa không? Chị chuẩn
bị tinh thần để chịu đựng sự đau đớn và nhẩm lại những việc phải làm:
Vót sẵn một con dao cắt rốn bằng cật nứa, mấy gói bông thấm nước, vài
chiếc khăn xô xé ra từ chiếc màn cũ của Thuỷ… Tất cả những thứ đó chị
xếp vào chiếc túi đặt ở đầu giường.
Một cơn đau dữ dội ập đến khi chị đang trên đường
trở về nhà, San thoáng hiểu điều ấy đã đến. Chị cố bước thật mau, nhưng
cơn đau khiến chị không thể nào bước tiếp được nữa. San tựa mình vào
gốc cây sến già có những chiếc bạnh lớn cao vút đầu người tựa như những
bức tường chắn gió. Rừng cuối thu khô ráo, chị vơ quáng quàng một đống
cành củi khô rồi vội nhóm lửa. Xong, chị trải tấm ni nông xuống đất, cởi
chiếc áo ngoài để bên cạnh, sau đó chị rút những sợi chỉ từ cuộn băng
cá nhân mà chị luôn mang theo bên người khi lên rừng, hơ con dao lên
ngọn lửa đang hừng hực cháy. Vừa lúc đó chị thấy tưng tức ở cửa mình,
chị ngồi xuống tựa lưng vào bạnh cây, thì cảm thấy ruột mình như sắp xổ
ra. San rướn người lên mặt đất, một cái gì đó vừa buột ra trơn nhày nhụa
trượt lên hai bên đùi, cùng lúc đó là tiếng khóc oe oe bật lên. San
nhắm nghiền đôi mắt lại, trong giây lát chị cảm thấy mình nhẹ bỗng như
vừa bay lên khỏi mặt đất…
-Mẹ ơi!
San thầm kêu lên, nước mắt chị chảy ràn rụa trên
đôi gò má sạm đen. Như sự mách bảo của bản năng, San tìm cuống rốn của
đứa trẻ đo vừa bằng đúng đầu gối nó rồi buộc sợi chỉ, cắt bằng con dao
đã thui trên ngọn lửa. Tất cả những việc làm ấy chỉ diễn ra chưa đầy một
phút, San bọc đứa bé vào tấm áo ấp vào ngực mình, cái miệng bé xíu của
nó chóp chép ngậm vào núm vú đón những giọt sữa ấm nóng đang trào ra từ
bầu ngực căng đầy của chị. San mơ màng nhìn lên tán cây rừng, chiều đang
sẫm lại. Mãi một lúc sau San mới giật mình nhớ ra đứa bé đây không biết
là trai hay gái. Chị khẽ lật hai tà áo đang bọc nó ra, lại hấp tấp đậy
lại, hai mắt San tối sầm, giọng chị nghe thảng thốt:
-Mẹ ơi, con gái…
Mặt San tái nhợt, chị lần tìm dấu vết trên người
con bé, một nốt ruồi son bằng hạt tấm trên bả vai nó. Chính San cũng có
một nốt ruồi như thế, mẹ chị bảo rằng: “Làm thân con gái có nốt ruồi son
trên vai thì khổ suốt đời…”. Nghiệm lại lời mẹ nói, San thấy đời mình
khổ quá. Những giọt nước mắt khổ đau tích tụ hơn sáu năm qua tưởng đã
đặc quánh lại nay lại buột trào ra.
-Mẹ ơi, sao thân con lại khổ thế này. Bây giờ lại
đến lượt con gái của con. Con có tội gì để trời trừng phạt? Cả đứa trẻ
này nữa, nó đã sinh ra chui lủi tại chốn rừng này. Nó là đứa con ngoài
giá thú. Mẹ ơi!…
San thấy khát vô cùng, khát như có lửa đốt ở
trong họng, chị quấn chặt đứa bé vào chiếc áo đặt xuống cạnh đống lửa
đang hừng hực cháy, đi về phía con suối nở đầy hoa cúc dại. Bóng đêm đã
tràn xuống mặt đất, chị cứ bước về tiếng suối chảy, càng đi càng thấy
thăm thẳm, rừng thì tối đen, cổ họng thì bỏng rát, chị vặt lá ven đường
nhai cho đỡ khát. Chị cứ đi hoang mang trong rừng như kẻ mộng du cho đến
lúc không còn bước được nữa gục xuống một bên một tảng đá ven đường.
Sớm hôm sau, khi ánh bình minh rực trên đỉnh rừng
San mới giật mình nhớ ra mình đi tìm nước, để con lại dưới gốc cây sến
già. Chị hấp tấp quay trở lại. Trên mảnh đất ngoài mảnh ni nông và con
dao chị chẳng thấy gì hết. San gục xuống kêu thất thanh:
-Trời ơi, con tôi bị lũ sói ăn thịt mất rồi!…
Chiều hôm sau, Bằng tìm thấy San bên cạnh con
đường phủ kín hoa cúc dại gần nhà. Cuối thu hoa đã tàn gần hết, màu hoa
đã ngả sang vàng nhạt, nhiều bông rũ xuống héo quắt. Nhìn tấm thân tiều
tuỵ của San, Bằng không thể nào hiểu nổi điều gì đã đến với San. Anh ở
lại gần một tuần để chăm sóc chị. Khi tỉnh lại, câu đầu tiên San nói với
anh:
-Em là một kẻ đáng nguyền rủa… Trời trừng phạt em. Không! Em không đáng được hưởng tình yêu và sự chăm sóc của anh.
Bằng không hiểu điều San định nói, nhiều lần anh gặng hỏi nhưng San một mực.
-Em van anh, anh hãy quên em đi, kẻ tội nghiệp này…
Cuối năm ấy San được điều về lâm trường, sau đó
được cử đi học. Bốn năm trời mỗi tháng chị đều đặn nhận được thư của
Bằng, chị không hề bóc ra dù một lá. Bốn mươi chín bức thư được chị xếp
cẩn thận dưới đáy va ni. Cho đến một hôm, sau khi tốt nghiệp đại học San
định xin về một tỉnh mà chị đề nghị thì nhận được tin Bằng đã hy sinh
trong cuộc đọ súng với những kẻ xâm nhập biên giới trái phép. Thế là chị
quyết định trở về lâm trường cũ, nơi chị muốn chôn vùi những kỷ niệm
đau buồn vào quên lãng.
“Bằng ơi, xin anh hãy tha lỗi cho San nhé. Quá
khứ khổ đau đã đè nặng lên trái tim em đến nỗi có lúc em em đã thề rằng
không bao giờ trở lại mảnh đất này nữa. Hoá ra điều ấy có thấm vào đâu
so với những gì anh đã cống hiến cho mảnh đất này…”. San vừa khóc vừa
nói những lời ấy bên mộ Bằng.
Vài năm sau San được đề bạt làm phó giám đốc, rồi
giám đốc. Chị thực hiện một loạt cải cách như: Giao đất, khoán rừng cho
công nhân, bên cạnh xây dựng các làng lâm nghiệp để tiện cho việc mở
đường giao thông, xây trường học, kết nghĩa với bộ đội biên phòng và địa
phương… Điều lạ lùng San từ chối tất cả mọi người đến với chị.
Một hôm, những cán bộ địa chất tóm được một con
vượn cái trong hang của đàn sói. Nó chỉ nhỉnh hơn đứa trẻ lên ba, mặt nó
nom như mặt người, nhưng gầy choắt, nhằng nhịt vết sẹo. Đó là dấu tích
của những lần nó và đàn sói ẩu đả tranh giành nhau miếng mồi. Toàn thân
nó phủ một lớp lông ngắn, tóc dài vàng cợp. Tay chân nó giống tay chân
người nhưng gầy khẳng khiu, nó không đi thẳng được mà đi bằng bốn chân,
khi ăn cũng gầm gừ như lũ sói.
Họ nhốt nó vào chiếc cũi sắt, mỗi khi nghe tiếng chó sói tru lên ở ngoài rừng, nó lại đáp lại bằng một tiếng tru dài thảm thiết.
San bàng hoàng khi nhìn thấy con vượn người lạ
lùng đó, chỉ một chút thôi là chị sụp xuống. Từ thăm thẳm của ký ức San
nhớ cái đêm tám năm về trước, chị đi hoang mang trong rừng mịt mùng bóng
tối, thi thoảng chị nghe được tiếng chó sói tru lên như thế. Một con
sói mẹ mất con ngỡ đứa trẻ trong bọc vải kia là con mình nên đã cắp nó
về ổ? San rùng mình nếu điều ấy là thật. Chị đề nghị những người địa
chất để con vượn lạ đó cho chị, bởi đó là khu rừng cấm, khu rừng bảo tồn
thiên nhiên.
Hàng ngày sau giờ làm việc chị quanh quẩn bên con
con vật, chị nói với nó bằng những lời yêu thương, con vật không hiểu
nổi những điều chị nói, nó sợ hãi đâm đầu vào các nan cũi đến chảy máu
trong nỗi hoảng loạn và suốt đêm tru gọi đàn một cách tuyệt vọng. Cho
đến một hôm con vật gục xuống vì kiệt sức, bởi nó không ăn bất cứ một
thứ gì. San ôm con vật vào lòng, chị vạch lớp lông trên bả vai trái nó,
một nốt ruồi son hiện ra, khiến chị hétt lên một tiếng kinh hãi.
-Mẹ ơi!…
***
Thay lời kết
San nhìn sâu vào mắt tôi ngơ ngác hỏi:
-Tôi hy vọng bằng tình mẫu tử sẽ giằng nó khỏi
bàn tay của dã thú. Nhưng tôi đã lầm. Phải, mãi mãi tôi không thể giành
lại được, khi đã một lần bỏ rơi nó. Anh có tin câu chuyện tôi vừa kể đây
là thật không?
-Không! Tôi lắc đầu – Có lẽ chị quá đau khổ vì
nhớ thương con mà tưởng tượng ra cái nốt ruồi trên vai con vật đó. Cũng
giống như người đi trên sa mạc, vì quá khát nên cứ ngỡ có một dòng sông
đang chảy trước mặt.
-Vâng tôi cũng muốn tin như thế…
Chị buồn rầu đáp.
San đồng ý cho tôi chép lại câu chuyện này, nhưng
đề nghị tôi không nêu tên cánh rừng và lâm trường của chị. Bởi thế, xin
bạn đọc chớ hỏi cánh rừng có nhiều hoa cúc dại ấy ở nơi nào.
Thái Sinh
Nửa đêm về sáng 15/4/1996
(Từ Văn Việt)
câu chuyện rất cảm động
Trả lờiXóa