Anh tôi nằm bịnh viện Saint Camille đã được mười bữa. Chiều hôm
qua, ảnh gọi điện thoại về nhà, nói: “Thằng tây nằm chung phòng ra nhà thương
rồi, ngày mai chủ nhựt, mầy vô đây anh em mình nói chuyện chơi.” Nghe giọng ảnh
‘có thần’ nên tôi vui vẻ trả lời: “Dạ! Mai em vô. Vợ con em đi Mỹ, chớ không thì
em cũng chở tụi nó vô thăm anh.” Tôi nghe ảnh cười khịt: “Một mình mầy cũng đủ
cho tao vui rồi…”
Phòng anh tôi là loại phòng hai giường ở lầu ba. Ông già người
Pháp cỡ hơn tám mươi tuổi nằm chung phòng với anh tôi rất khó tánh. Ổng không
thích có nhiều ánh sáng vào phòng nên tấm màn cửa sổ lúc nào cũng chỉ hé lên một
chút thôi. Thấy ổng quá già lại hay gắt gỏng nên mấy cô y tá cũng nhân nhượng,
chỉ kéo tấm màn lên cao trước giờ bác sĩ trưởng đi thăm bịnh nhân, rồi lại hạ
thấp xuống sau đó. Mỗi lần tôi vào thăm anh tôi, mặc dầu chúng tôi nói chuyện
nho nhỏ với nhau, ổng cũng lăn qua trở lại thở dài. Có khi còn lấy gối bịt lỗ
tai nữa! Anh tôi nói: “Tao chưa bao giờ nghe nó…tằng hắng với tao một tiếng!”
Ông tây đó xuất viện, chắc anh tôi nghe… nhẹ lắm nên mới vội vã gọi tôi vào
chơi, để nói chuyện mà không cần giữ gìn ý tứ gì hết!
Hôm nay, tấm màn cửa sổ được kéo lên hết nên để lộ trời cao lồng
lộng và phòng đầy ánh sáng. Thấy tôi, anh tôi vui vẻ nói: “Mừng quá! Hổm rày, cứ
làm thinh, bực mình thấy mụ nội! Bữa nay, tụi mình nói chuyện tự do, cho nó đã!”
Tôi nhìn anh tôi mà thấy thương: mới ngoài sáu mươi mà đã già xọm. Bao nhiêu năm
tù đày đã ăn mòn cơ thể của ảnh đến nỗi từ khi ảnh qua Pháp sum họp với
vợ chồng tôi, ảnh cứ bịnh lên bịnh xuống hoài. Cũng may là ảnh không có vợ con
nên không có những cái lo của người có gánh nặng gia đình. Và cũng may là ảnh
chỉ có một mình tôi là em đã có cuộc sống ổn định nên ảnh không phải cưu mang
một đứa em nào khác.
Hai anh em tôi nói chuyện vui vẻ một lúc, bỗng anh tôi nhìn trời
qua khuôn kiếng cửa sổ rồi nói: “Trời đẹp quá, Cu!” Tôi còn đang ngẩn ngơ không
biết ảnh nói với ai thì ảnh cười khịt khịt: “Mầy quên mầy hồi nhỏ tên là Cu hả?”
Tôi bật cười: cả một trời dĩ vãng bỗng hiện về rất rõ, với những hình ảnh thuở
nhỏ ở nhà quê, có bà mẹ một mình trồng rau trồng cải nuôi hai thằng con, đứa lớn
tên Hai đứa nhỏ tên Cu… Tôi nhìn anh tôi mà nghe rưng rức ở trong lòng. Tôi ‘Dạ’
như cái máy! Anh tôi nói: “Bác sĩ nói anh ra ngoài chút chút được.” Tôi lại ‘Dạ’
nhưng vẫn còn thấy tôi đang ở quê tôi, ở trong cái nhà tranh vách đất có giàn
bầu vắt lên mái tranh che sàn nước nằm bên góc bếp… Tôi nói ‘Vậy hả anh’ mà vẫn
còn đứng trong vườn rau của mẹ với mấy cây mít cây ổi cây xoài, vẫn còn nhìn cái
giếng có cây cần vọt để kéo nước và cái gàu đeo lủng lẳng ở đầu cây sào dài…Tôi
chỉ giật mình dạ lớn khi nghe anh tôi gọi: “Cu! Ê …Cu!” Ảnh nhìn tôi, mỉm cười:
“Tao muốn mầy đưa tao đi một vòng” Tôi ‘Dạ’ rồi vội vã bước ra cửa. Ảnh ngạc
nhiên: “Đi đâu vậy?” Tôi trả lời: “Em đi lấy cái xe lăn!” Ảnh bật cười: “Không
cần xe lăn xe liếc gì hết. Mầy lại đây, tao chỉ cho.” Ảnh tằng hắng mấy tiếng
rồi nói tiếp: “Mầy đỡ tao dậy cạnh giường. Đọ… Mầy xây lưng lại thụt sát vô cạnh
giường ở giữa hai chân tao nè. Đọ…Rồi mầy rùng người xuống cho tao ôm cổ mầy.
Mẹ… Mầy ăn thứ gì mà mầy lớn con quá hổng biết! Rồi! Tao ôm chắc rồi! Bây giờ,
mầy choàng hai tay ôm hai bắp vế của tao đây, vừa xóc nhẹ để lấy trớn vừa đứng
lên. Đọ…Như vậy, người mình gọi là ‘cõng’. Ở xứ nầy, tao chưa thấy ai cõng ai
hết. Có lẽ người ta không biết cõng, mầy à!” Tôi cõng anh tôi, nhẹ hều. Ảnh nói:
“Hồi nhỏ, tao cõng mầy mòn lưng, mầy đâu có biết!” Một xúc động bỗng dâng tràn
lên cổ, tôi vừa nuốt xuống vừa siết chặt hai chân anh tôi như muốn ôm lấy hết
con người của ảnh để cám ơn, cái con người đang nằm trên lưng tôi đây, cái người
anh đã hy sinh suốt cuộc đời không chịu lập gia đình chỉ vì muốn nuôi thằng em
ăn học cho đến nơi đến chốn! Ảnh đã cõng tôi trong thời tuổi nhỏ, về sau, ảnh
vẫn tiếp tục cõng tôi – dù dưới hình thức khác – cho đến ngày tôi thành nhân ra
đời. Biết bao giờ tôi cõng lại anh tôi suốt hai mươi mấy năm trời như
vậy?
Chúng tôi ra hành lang. Gặp một cô y tá, cô ta vội nói: “Để tôi
lấy cho ông một chiếc xe lăn!” Tôi lắc đầu: “Khỏi cần! Cám ơn cô! Anh tôi muốn
tôi cõng như vầy.” Cô ta mỉm cười bỏ đi, vừa đi vừa nhìn lại, vẻ ngạc nhiên. Anh
tôi nói: “Mầy thấy không? Ở xứ nầy, người ta không biết cõng là gì!” Thật vậy,
đi dài dài theo hành lang, gặp ai cũng bị nhìn với một nụ cười như muốn nói ‘Làm
gì ngộ vậy há’! Tiếng của anh tôi vẫn đều đều nho nhỏ bên tai: “Hồi đó, năm mầy
ba tuổi là năm mầy bịnh hoài nên mầy cứ nhề nhệ nhề nhệ đeo theo má đòi ẵm.
Chiều nào má cũng nói ‘Hai! Mầy cõng thằng Cu đi hàng xóm cho má nấu cơm coi!’
Vậy là dầu tao đang tưới rau tao cũng quăng đó, cõng mầy đi vòng vòng. Hồi đó,
lúc nào mầy cũng ở truồng, còn tao, dầu đã hơn mười tuổi, nhưng lúc nào cũng ở
trần, chỉ khi nào đi học mới máng lên mình cái áo sơ-mi. Thành ra, khi cõng mầy
tao thương ở cái chỗ là nghe con cu của mầy mềm mềm nằm gọn trên da lưng tao.
Nhiều khi thương quá, tao xoay người lại hun mầy trơ trất làm mầy nhột mầy cười
đưa mấy cái răng non nhỏ như hột gạo! Mầy coi! Vậy mà đã hơn năm mươi năm rồi
chớ bộ!” Tôi im lặng nghe anh tôi kể mà trong đầu thấy như đang nhìn ngay trước
mắt cảnh thằng anh cõng thằng em đi quanh quanh để người mẹ rảnh tay lo nấu bữa
cơm chiều… Đẹp quá! Anh tôi lại nói: “Thiệt ra, tao đâu có cõng mầy đi đâu xa.
Đi lòn lòn qua mấy liếp rau mấy bờ mía rồi qua lò bánh tráng của dì Sáu Lộc.
Đứng xớ rớ một chút là dì Sáu hay chị Hai Huê con của dỉ cho một cái bánh tráng
nướng thơm phức.” Ngừng một chút, anh tôi hỏi: “Mầy còn nhớ chị Hai Huê không?”
Tôi đáp: “Dạ có. Hồi đó, chỉ ra sư phạm rồi dạy tụi em ở tiểu học.” Anh tôi tằng
hắng: “Ờ! Chỉ đó! Má khen chỉ lắm, nói: con nhỏ dễ thương, đi làm có lương mà
chỉ sắm có hai cái áo dài, hỏi nó thì nó nói nó để dành tiền cất một cái quán
cho má nó ra bán bì bún ít cực hơn là xay bột tráng bánh.” Đến đây thì tôi nhớ
rõ cái quán của dì Sáu Lộc: quán nhỏ nằm cạnh cây gõ trước lò bánh tráng. Bì bún
ngon có tiếng. Có điều là dì Sáu không bán rượu đế mà cũng không cho khách hàng
mang rượu đế đến quán! Dân nhậu phàn nàn thì dì Sáu nói: “Tôi ghét thứ đó lắm!
Cũng tại ba cái đế đó mà ông nhà tôi ba ngù té xuống bàu chết không ai hay!” Cái
quán đó về sau giao cho vợ chồng cô cháu gái của dì Sáu trong nom và được cất
rộng ra thành tiệm cà phê, người ta gọi là tiệm Cây Gõ…
Ở cuối hành lang bịnh viện là khuôn kiếng rộng. Nhìn xuống dưới
thấy nắng đầy… Cây cỏ được cắt xén sạch sẽ đẹp mắt. Tia nước tưới vườn tự động
quét qua quét lại coi mát rượi. Anh tôi im lặng nhìn một lúc rồi nói: “Hồi đó,
chiều nào đi học về, tao cũng phải đi tưới vườn rau. Mới có mười tuổi mà tao
mạnh lắm! Cái gàu nước lớn như vậy mà tao xách chạy bon bon. Phải nói là nhờ có
cây cần vọt tao mới kéo nổi cái gàu ra khỏi giếng, chớ nếu kéo bằng sợi dây dừa
thì chắc tao chịu thua.” Có lẽ sợ tôi quên nên anh tôi tả cây cần vọt. Tôi vẫn
để ảnh nói vì tôi thấy ảnh đang sung sướng với những hình ảnh đẹp của quê hương,
cái quê hương ngàn trùng xa cách…Tiếng của anh tôi vẫn đều đều bên tai: “Cần vọt
là hai cây tre lớn bằng bắp chân đóng dính chắc vào nhau bằng những thanh ngang
coi giống như một cái thang. Chân cái thang đó được chôn đứng cách giếng độ hai
ba thước. Trên đầu có một cốt tròn xỏ qua hai thân tre. Bắc dính chắc trên cái
cốt đó là một thân tre dài, đầu to là đầu nặng nằm đụng đất, đầu nhỏ chỉ lên
trời coi giống như một đòn bẩy hay một cái đu nhún lên hạ xuống của trẻ con. Đó
là cái cần. Trên đầu cần là một cây sào bằng tầm vông dài xuống gần miệng giếng,
đầu dưới của sào có cái móc để móc cái gàu. Muốn lấy nước, người ta kéo cây sào
thòng gàu xuống giếng đợi gàu đầy nước là kéo gàu lên, cây cần làm đòn bẩy giúp
cho người kéo nước không phải ráng sức. Hay quá!” Tôi nói đẩy đưa, cố ý để cho
anh tôi nghỉ: “Dạ. Em còn nhớ cây cần vọt chớ! Hồi em lớn lên, em vẫn phụ anh
tưới rau cho má, anh quên sao? Em còn nhớ hồi đó phần của em là lo tưới và châm
sóc giàn bầu cùa má .” Ảnh cười khịt khịt: “Ờ… giàn bầu. Trái dài lòng thòng, đi
ngang phải cúi đầu để tránh.” Rồi giọng của ảnh như vui lên: “Bầu luộc là món mà
tụi mình ăn hằng ngày, mầy nhớ không? Bữa cơm nào cũng có bầu luộc, mẻ cá kho và
một tô nước luộc bầu. Nước luộc bầu không có con tôm con tép gì hết, chỉ có chút
muối, chút tiêu và mấy cọng hành… vậy mà tụi mình chia nhau húp ngon lành, hén
Cu!” Tôi bồi hồi nhớ lại cảnh anh em tôi húp nước luộc bầu, nhứt là cái cử chỉ
của anh tôi khi ảnh đưa tô sành mẻ miệng, xây chỗ miệng tô còn lành, nói: “Húp ở
đây nè, Cu!”. Cha ơi…! Sao mà nó đẹp!
Thấy gần trưa, tôi cõng anh tôi đi lần về phòng. Bỗng ảnh nói: “
Ý! Má kêu kìa!” Rồi ảnh nghẻo đầu buông thõng hai tay! Tôi đang hốt hoảng chưa
biết phải làm sao thì gặp ông bác sĩ trưởng trong thang máy bước ra. Tôi vội vã
gọi: “Bác sĩ! Bác sĩ! Ông coi dùm coi! Anh tôi bị gì rồi!” Bác sĩ rờ đầu rờ cổ
anh tôi rồi lôi tôi chạy lại phòng trực y tá. Bác sĩ hướng vào trong nói ‘Cứu
cấp’. Mấy cô y tá phóng ra đỡ anh tôi qua giường sắt có bánh xe rồi đẩy nhanh về
phòng, theo sau là xe dụng cụ thuốc men. Vào phòng, một cô y tá đẩy nhẹ tôi ra
ngoài, nói: “Ông đừng vào. Cảm phiền đứng đợi ở đây.” Rồi đóng cửa lại. Tôi tỳ
người vào tường, nhìn quanh bối rối: hành lang trống trơn bỗng như rộng mênh
mông…
Một lúc lâu sau mấy cô y tá mở cửa đẩy giường đẩy xe ra, nói
chuyện tỉnh bơ. Đi sau cùng là bác sĩ trưởng. Ổng vỗ vai tôi, nói: “Không có gì
hết! Chỉ bị xúc động mạnh thôi. Ông vào được rồi.” Tôi nói ‘Cám ơn’ rồi thở dài
nhè nhẹ như vừa trút một gánh nặng. Nhìn thấy tôi bước vào, anh tôi mỉm cười,
mắt ảnh ngời sáng, nhưng ảnh vừa đưa tay ra dấu vừa nói: “Thôi! Mầy về đi! Để
tao ngủ một chút.” Nói xong, ảnh nhắm mắt mà trên môi vẫn còn nguyên nụ cười.
Tôi biết: ảnh đang đi vào giấc ngủ với những hình ảnh đẹp!
Tôi bước ra, đóng nhẹ cửa lại. Hành lang dài tung hút. Chắc cũng
đến giờ cho bịnh nhân ăn nên phảng phất có mùi đồ ăn. Tôi bỗng nghe thèm vị ngọt
của nước luộc bầu mà anh em tôi chia nhau húp năm chục năm về trước, bây giờ sao
vẫn còn nhớ. Và lạ thiệt! Nước luộc bầu quá tầm thường như vậy mà sao cũng mang
đầy mùi vị của quê hương?
Tôi nuốt nước miếng…
Tiểu
Tử
rất tuyệt
Trả lờiXóa