Thứ Năm, 10 tháng 11, 2016

Chữ Nho... Dễ Học (Bài 23) - (Đỗ Chiêu Đức)... mà học không dễ

                                         Chữ Nho... Dễ Học (Bài 23)
                                 Các bộ 7 nét
                                豆 
                                 
                                
          Như thường lệ, trước khi vào bài viết mới ta giải đáp câu đố của bài viết cũ nhé!
            Thượng hữu trấp vạn quân,    上有廿萬軍,
            Đả khai Bắc Kinh thành.          打開北京城。
            Thành trung nhất khẩu tỉnh,    城中一口井,
            Tỉnh hạ tứ tướng quân.            井下四將軍。
Có nghĩa :
            Phía trên có hai mươi vạn quân,
            Mở cửa thành Bắc Kinh ra.
            Trong thành có một miệng giếng,
            Dưới giếng có bốn vị tướng quân.
Giải Đố :
       Thượng hữu trấp vạn quân, lấy chữ TRẤP 廿.
       Đả khai Bắc Kinh thành, lấy chữ BẮC .
       Thành trung nhất khẩu tỉnh, lấy chữ KHẨU .
       Tỉnh hạ tứ tướng quân, là 4 chấm ở bên dưới .
       Ghép 4 phần trên lại với nhau : chữ TRẤP 廿 ở trên cùng, chữ BẮC 北 ở dưới, được viết rời 2 phần ra, do từ ĐẢ KHAI là MỞ RA. Chữ KHẨU 口 viết vào giữa 2 phần MỞ RA của chữ BẮC, do từ THÀNH TRUNG là ở TRONG THÀNH. Cuối cùng là Chấm thêm 4 chấm 灬 vào bên dưới.  Ta có chữ YẾN 燕.
       YẾN 燕 là ÉN, là con chim én, biểu tượng của mùa xuân, mặc dù ta thường nói là "Một con chim én không làm nổi mùa Xuân", nhưng mùa Xuân cũng không thể nào thiếu vắng hình bóng của con chim én. Tiếng nỉ non và cảnh bay lượn xập xòe của chim én tạo nên sự ấm cúng của một gia đình hạnh phúc.  Khi gia cảnh suy vi thất tán thì chim én cũng bỏ tổ mà bay đi như hai câu thơ cuối trong bài Ô Y Hạng của Lưu Vũ Tích :
           Cựu thời Vương Tạ đường tiền Yến,
               舊時王謝堂前燕,
           Phi nhập tầm thường bách tính gia.
               飛入尋常百姓家。 
Có nghĩa :
      Chim én ở trên rường nhà giàu của họ Vương họ Tạ thuở xưa.
      Nay đã bay hết cả vào nhà dân chúng bình thường rồi!
      Chim én có tên kép là YẾN TỬ 燕子, tên riêng là Ý NHI 意兒. Ta hãy đọc lại một vế Song thất Lục bát trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đoàn nữ sĩ thì sẽ rõ:
          Buổi tiễn đưa oanh chưa bén liễu,
          Định ngày về xót nẽo quyên ca,
          Nay quyên đã giục oanh gìa,
          Ý NHI lại hót trước nhà líu lo!
        Image result for 燕子 Image result for 燕子

                        Image result for 燕子
                 Ý Nhi lại hót trước nhà líu lo!
    YẾN 燕 khi là Họ của một người, hoặc khi là tên của một nước, thì đọc là YÊN (không có dấu sắc). YÊN 燕 là một trong Chiến Quốc Thất hùng 戰國七雄 (481-221 trước Công Nguyên) đời Đông Châu Liệt Quốc, gồm: Hàn, Triệu, Ngụy, Tề, Sở, Yên và Tần. Còn nước YÊN do dòng họ Mộ Dung dựng nên mà Kim Dung viết trong Thiên Long Bát Bộ với "Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung" là ở trong thời Ngũ Hồ Loạn Hoa Thập Lục Quốc 五胡亂華十六國 (khoảng từ Công Nguyên 384- 436 sau Công Nguyên thì diệt vong).
                          CÁC BỘ 7 NÉT
1. BỘ BỐI :
    BỐI   : chỉ chung Ngao Sò Ốc Hến. BỐI 貝 là chữ Tượng Hình, theo diễn tiến của chữ viết như sau:
     Giáp Cốt Văn  Kim Văn     Đại Triện    Tiểu Triện    Lệ Thư

Ta thấy :
     Từ Giáp Cốt Văn đến Kim Văn, Đại Triện đều là hình tượng của một con nghêu, con sò mở ra hai bên, đến Tiểu Triện mới hình thành chữ viết và cho đến Lệ Thư thì mới giống hoàn toàn với chữ viết hiện nay. Ta có từ BỐI XÁC 貝殼 là Vỏ Sò, Vỏ Nghêu. Nữ Sĩ Quỳnh Dao của Đài Loan đã viết một quyển tiểu thuyết rất nổi tiếng có tựa là TỬ BỐI XÁC 紫貝殼: Vỏ Sò Tím.
      Có rất nhiều vỏ Nghêu Sò với các màu sắc óng ánh thật đẹp, nên ngày xưa dùng vỏ sò làm tiền để trao đổi hàng hóa, gọi là BỐI HÓA 貝貨. Vỏ Sò cũng là một trong những vật trang sức qúy gía, nên ta lại có từ BẢO BỐI 寶貝, còn đọc là BỬU BỐI.
      BẢO BỐI 寶貝 ngoài nghĩa là những vật qúy gía ra, còn có nghĩa là "Cục Cưng": Từ của cha mẹ gọi con gái hay của những người đang yêu gọi nhau, có nghĩa như từ "Honey" trong tiếng Mỹ vậy!
      BỐI 貝 : còn là một trong Bách Gia Tính, họ BỐI, như BỐI HẢI THẠCH 貝海石, một thầy thuốc giỏi, có ngoại hiệu là Chước Thủ Hồi Xuân, một nhân vật mưu mô nổi tiếng trong Trường Lạc Bang với Ngũ Hành Lục Hợp Chưởng trong tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng của Kim Dung: HIỆP KHÁCH HÀNH 侠客行.
      BỐI LẶC 貝勒 : Một giai cấp quý tộc của triều Mãn Thanh, tương đương với tước Vương của Hán tộc. Xem phim Tàu gần đây về triều đại Mãn Thanh, ta hay nghe gọi các vương tôn công tử là BỐI LẶC GIA 貝勒爺. Tên gọi đầy đủ của giai cấp nầy bằng tiếng Mãn đã được Hán hóa là ĐA LA BỐI LẶC 多羅貝勒.
       BỐI ĐA PHÂN 貝多芬 : là phiên âm tên của nhạc sĩ nỗi tiếng thế giới của nước Đức ở cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ thứ 19 mà cả thế giới đều hâm mộ: Beethoven.
                           Bối Lặc Gia 
                          Image result for Beethoven
                 Bối Đa Phân : Beethoven. 

Có tất cả 131 chữ được ghép bởi bộ BỐI nầy, tất cả thường đều có liên quan đến tiền tài bảo bối, đồ trang sức quý giá... như:
     TÀI 財 : là Tiền của TÀI VẬT 財物, là Tiền Tài Danh Vọng 錢財名望 : Cái mà mọi người đều ưa thích. Trong Tăng Quảng Hiền Văn có câu :
                  Nhân vị TÀI tử,       人為財死,
                  Điểu vị thực vong.   鳥為食亡。
Có nghĩa :
            Người thì vì tiền tài mà chết, còn ...
            Chim thì vì miếng ăn ( ham mồi ) mà chết.
      Trong đại gia đình phong kiến ngày xưa, tất cả con cháu đều quây quần sống chung dưới một mái gia đình, nên ông bà thường khuyên răn con cháu bằng câu: HÒA KHÍ SANH TÀI 和氣生財, có nghĩa: Gia đình có hòa thuận thì mới cùng nhau đồng tâm hiệp lực mà làm ra tiền của được. Lại dạy rằng:
        TIỀN TÀI như phân thổ,    錢財如糞土,
        Nhân nghĩa trị thiên kim.  仁義值千金。 
Có nghĩa :
      Tiền của thì như phân như đất (không qúy giá), còn...
      Nhơn nghĩa ở đời thì mới đáng giá ngàn vàng!
      Lúc nhỏ, thường nghe bà con lối xóm ở xứ tôi, nói chơi mà có tính hơi mĩa mai thế sự là: "Tiền Tài thì như ông tiên tổ, còn Nhơn nghĩa thì tợ cục cứt khô!"
      Ông bà xưa cũng thường tâm niệm câu :
           Bất cầu kim ngọc trọng trọng QÚY,
               不求金玉重重貴,
           Đản nguyện nhi tôn cá cá HIỀN. 
                但願兒孫個個賢。
Có nghĩa :
     Không cầu có vàng có ngọc thật nặng, thật qúy, mà chỉ...
     Mong rằng con cháu đứa nào đứa nấy đều giỏi, đều hiền.
     Chữ QÚY 貴 thuộc bộ BỐI 貝, chỉ Qúy Giá. Chữ HIỀN 賢 cũng thuộc bộ BỐI 貝, vừa chỉ Hiền Lành, vừa chỉ Tài Giỏi. Như HIỀN THẦN 賢臣 là bề tôi giỏi giúp vua trị nước. HIỀN TÀI 賢才 là người có Tài Giỏi, Hiền Tài còn là một chức sắc trong Cao Đài Giáo chỉ những người giỏi giang. Ta hay nghe từ:
      HIỀN THÊ LƯƠNG MẪU 賢妻良母 : là Làm Vợ thì giỏi mà làm Mẹ thì hiền, ta nói là "Vợ đảm Mẹ hiền".
      DOANH 贏 : Lời, Thắng, Ăn (trái với Thua). DOANH LỢI 贏利 : là Tiền Lời kiếm được do kinh doanh 經營 (làm ăn, buôn bán) hoặc do đổ bác 賭博 (cờ bạc) thắng được. Chữ nầy làm ta nhớ đến 2 câu thơ cuối trong bài "Khiển Hoài" của Đỗ Mục ở cuối đời Đường:
          Thập niên nhất giác Dương Châu mộng,
               十年一覺揚州夢,
          DOANH đắc thanh lâu bạc hãnh danh!    
                贏得青樓薄倖名.
Có nghĩa :
      Mười năm chợt bừng tỉnh giấc mộng (ăn chơi) ở Dương Châu,
      Chỉ LỜI được cái tiếng "là kẻ bạc tình ở lầu xanh" mà thôi! 
      Câu nầy đã được cụ Nguyễn Du mượn ý để giới thiệu gả Sở Khanh trong truyện Kiều:
                       Bạc tình nổi tiếng lầu xanh,
                Một tay chôn biết mấy cành phù dung.

      

                        Bạc tình nổi tiếng lầu xanh
 
2.BỘ BIỆN  :
   BIỆN  : là Hình tượng của dấu chân thú in trên mặt đất một cách rõ rệt:
                                        
   Nên, BIỆN 釆 là Phân biệt một cách rõ ràng, BIỆN chỉ là một Bộ, hiện được dùng làm chữ Giản Thể cho chữ BIỆN phồn thể sau đây 辨. Ta có từ BIỆN BIỆT 辨别: là Phân biệt rõ ràng.
           Có tất cả 6 chữ được thành lập bởi bộ BIỆN nầy, tiêu biểu nhất là chữ:
   THÁI   : là Hái. THÁI 采 là chữ dùng Tượng hình để Hội Ý cái nghĩa của chữ viết, theo diễn tiến sau đây:
甲骨文金文金文大篆小篆繁体隶书
Ta thấy :
     Giáp Cốt Văn là hình vẽ một bàn tay móng vuốt từ trên đưa xuống, bên dưới là một khóm hoa. đến Kim Văn rồi Đại Triện, Tiểu Triện thì hình thành hẵn bộ TRẢO 爪 là Móng Vuốt ở trên, MỘC 木 là Cây Cỏ ở dưới. Móng vuốt của bàn tay thò xuống cây cỏ là "không có ý tốt" nên THÁI  采 là HÁI, là Vin Cành Bẻ Lấy! Phồn thể của THÁI 采 nầy là THÁI 採 (có thêm bộ THỦ 扌 là Tay bên trái), và cũng thông dụng với chữ THÁI 彩 là SẮC THÁI 色彩 là Màu sắc.
     Chữ THÁI 采 là Hái, làm ta nhớ đến bài Quyển Nhĩ, chương Chu Nam Quốc Phong trong Kinh Thi 《国风·周南·卷耳:
                  采采菤耳,     Thái Thái quyển nhĩ,
                  不盈傾筐。     Bất doanh khuynh khuông.
                  嗟我懷人,     Ta ngã hoài nhân,
                  寘彼周行。     Trí bỉ chu hành.
Diễn Nôm :
                Hái rau quyển nhĩ trên non,
        Chẳng đầy nghiêng giỏ rau còn xanh tươi.
                Thương ta lại nhớ đến ai,
        Bên đường đặt giỏ thêm dài ngẩn ngơ!

       Câu "TA NGÃ HOÀI NHÂN  嗟我懷人 đã trở thành Thành ngữ dùng để điếu tang đối với các bạn thân đã qua đời, nhất là đối với "Các Bạn Gìa" như hiện nay, khi thân ta còn đang lưu lạc xứ người: "Cảm thán cho thân ta khi nhớ đến người ", giống như tâm trạng của cô Kiều trước mả của Đạm Tiên vậy:
         "Thấy người nằm đó biết sau thế nào?!"

        Một chữ tiêu biểu cho bộ BIỆN  nữa là :
    THÍCH 釋 : là Nói rõ, là Cắt nghĩa. Như CHÚ THÍCH 注釋 : là Ghi chú và giải thích cho rõ nghĩa. GIẢI THÍCH 解釋 : là Cắt nghĩa một cách rõ ràng. Nhưng ...
    THÍCH 釋 còn có nghĩa là Buông Bỏ, là Giải Tỏa... nên GIẢI THÍCH 解釋 còn có nghĩa là Buông Bỏ đi, là làm cho Tiêu Tán đi... như trong 2 câu thơ cuối của Thi Tiên Lý Bạch diễn tả về cái đẹp của Dương Qúy Phi trong bài Thanh Bình Điệu thứ ba:
            解釋春風無限恨, GIẢI THÍCH xuân phong vô hạn hận,
            沉香亭北倚檻桿。 Trầm hương đình bắc ỷ lan can.
Có nghĩa :
                     XÓA ĐI bao hận xuân phong,
              Đình Trầm hương bắc đứng trông hoa tàn.

     PHÓNG THÍCH là Thả Ra, người Hoa gọi là THÍCH PHÓNG 釋放. Như PHÓNG THÍCH PHẠM NHÂN là Thả những người bị ở tù ra.  Trong thí nghiệm Hóa Học, chất được Phóng Thích là chất được tạo ra, hoặc chất bị tiêu hao bởi một phản ứng hóa học nào đó để tạo ra một vật chất hoặc một năng lượng.
     THÍCH 釋 còn là tên gọi tắt của Đức Phật THÍCH CA MÂU NI 釋迦牟尼 do phiên âm tiếng Phạn là Sakyamuni mà ra, nên đạo Phật còn gọi là THÍCH ĐẠO 釋道 hoặc THÍCH GIÁO 釋教 là Đạo Thích. Tương tự THÍCH ĐIỂN 釋典 là Kinh Phật, THÍCH TỬ 釋子 là Thầy Chùa...
     Image result for 釋迦牟尼  Image result for 釋迦牟尼

                      Image result for 釋迦牟尼
                 Thích Ca Mâu Ni 釋迦牟尼  Sakyamuni
3. BỘ XA  :
    XA   : là XE. XA 車 là Phương tiện giao thông trên bộ. XA là chữ Tượng Hình theo diễn tiến của chữ viết như sau:
甲骨文金文金文大篆小篆繁体隶书
Ta thấy :
       Giáp Cốt Văn là hình cái thùng xe với 2 cái bánh xe ở phía sau, đến Kim Văn thì thùng xe được quay ngang, phía trước có hình 2 con ngựa kéo ở 2 bên, cho đến Kim Văn Đại Triện thì được đơn giản hóa với hình tượng từ trên nhìn xuống: Giữa là thùng xe, 2 nét ngang trên dưới là 2 bánh xe, bỏ đi hình 2 con ngựa kéo cho đơn giản. XA là phương tiện giao thông có bánh xe tròn để di chuyển trên bộ. Xưa do ngựa kéo nên gọi là XE NGỰA : MÃ XA 馬車, sau phát minh ra máy chạy bằng hơi nước, nên gọi là XE HƠI: KHÍ XA 汽車. Xe chạy mà ống khói phun ra khói lửa thì gọi là XE LỬA: HỎA XA 火車. Xe chạy bằng điện thì gọi là XE ĐIỆN : ĐIỆN XA 電車. Chiếc xe đơn giản đạp bằng 2 chân thì gọi là ĐƠN XA 單車 là Xe Đạp. Gắn máy vào thì gọi là XE GẮN MÁY: CƠ ĐỘNG XA 機動車, tiếng Pháp gọi là XE MÔ-TÔ, nên người Hoa nhái âm dịch là 摩托車 MA ĐÀ XA. XE dùng để chở khách thì gọi là KHÁCH XA 客車, xe dùng để chở hàng hóa thì gọi là HÓA XA 貨車, xe dùng để chiến đấu thì gọi là CHIẾN XA  戰車 ...
       Thành ngữ về XA thì có :
    XA LUÂN CHIẾN 車輪戰: là Một chiến thuật. Phía tấn công dùng hết đợt nầy đến đợt khác tấn công tới tấp như bánh xe đang xoay chuyển không ngừng, làm cho phía phòng thủ trở tay không kịp, mỏi mệt mà chịu thua, đầu hàng.
    XA MÃ PHÍ 車馬費 : là Tiền xe tiền ngựa, ý chỉ Phí Giao Thông, chi phí về vận chuyển. 
    XA THỦY MÃ LONG 車水馬龍 : là viết gọn lại của câu "Xa như lưu thủy, mã tự du long 車如流水,馬如游龍 ", có nghĩa: Xe qua lại như nước chảy, ngựa tới lui như rồng quẩy nước. Cụ Nguyễn Du đã mượn ý trên để diễn thành: "Ngựa xe như nước áo quần như nen".
                         Image result for 車如流水,馬如游龍
                             Xa thuỷ Mã long

        Có tất cả 156 chữ được ghép bởi bộ XA 車, tiêu biểu có:
   QUÂN 軍 : là Lính, là Thuộc về Quân đội. Ta có các từ quen thuộc như: QUÂN PHỤC 軍服, QUÂN HÀM 軍銜, QUÂN Y 軍醫, QUÂN XA 軍車, QUÂN KHUYỂN 軍犬 (Khuyển Quân)... và các thành ngữ thường gặp như:
     THIÊN QUÂN VẠN MÃ 千軍萬馬 : Chỉ rất nhiều quân lính (chớ không phải chỉ nhiều ngựa, mặc dù THIÊN QUÂN là chỉ có Một Ngàn lính thôi, nhưng VẠN MÃ là tới Mười Ngàn con ngựa lận!) Trong chốn "THIÊN QUÂN VẠN MÃ": là Trong chỗ bị bủa vây bốn bề bởi rất nhiều quân lính (Vì ngày xưa kỵ binh cởi ngựa nên nói thế, chớ ngày nay kỵ binh chỉ cởi... thiết giáp thôi!)  
     KHAO THƯỞNG TAM QUÂN 犒賞三軍: Nghĩa đã rõ. Chỉ là ngày xưa Tam Quân là: Bộ Binh, Kỵ Binh và Thuỷ Binh; còn ngày nay Tam Quân là LỤC QUÂN 陸軍, HẢI QUÂN 海軍 và KHÔNG QUÂN 空軍.
Lúc đón Kiều về sum họp, Từ Hải cũng đã :
               Tiệc bày Thưởng Tướng Khao Binh,
         Om thòm trống trận rập rình nhạc quân!

     HOÀNH TẢO THIÊN QUÂN 橫掃千軍: Hoành Tảo là Quét Ngang, như cây chổi quơ ngang quét hết, quét sạch. Chỉ chiến thuật thần tốc hiệu quả tiêu diệt sạch sẽ số lượng lớn quân địch như nhát chổi quét ngang. Trong Văn Thơ chỉ khí thế mạnh mẽ hùng tráng của thơ văn có sức mạnh đẩy lui được quân địch. Trong Thư Pháp là những nét bút mạnh mẽ dọc ngang phóng túng không bị gò bó. Trong nghề võ Hoành Tảo Thiên Quân là một chiêu thức của đường côn, đường roi, lưỡi giáo quét ngang mạnh mẽ và hiễm hóc để đẩy lui đối thủ.
     QUỶ 軌 : là Khoảng cách giữa 2 bánh xe ngày xưa, khoảng 8 thước. Sau dùng để chỉ cái Trục giữa 2 bánh xe gọi là XA TRIỆT 車轍.
QUỸ 軌 còn có nghĩa là Vòng quay hoặc là con đường nhất định đã được vạch sẵn, gọi là QUỸ ĐẠO 軌道. Như Quỹ Đạo của mặt trăng quay quanh địa cầu. Quỹ Đạo còn có nghĩa là Đường Rầy xe lửa. Đi sai Quỹ Đạo ta nói là "Đi trật đường rầy", làm không đúng con đường đã được vạch sẵn của Tổ Chức, Hội Đoàn, Công Ty... cũng gọi được là "Đi trật đường rầy"!
      TẢI 載 : là CHỞ. VẬN TẢI 運載 là Chuyên Chở. TẢI TRỌNG 載重 ta gọi là Trọng tải, là Sức Chở của xe tàu. Ta có thành ngữ :
      VĂN DĨ TẢI ĐẠO 文以載道 : Văn học văn chương là dùng để CHỞ cái đạo lý làm người. Ý chỉ Văn học phải có ích lợi cho đời sống thực tế của nhân sinh, tức là VĂN HỌC VỊ NHÂN SINH, chớ không phải như VĂN HỌC VỊ NGHỆ THUẬT chỉ chú trọng trau chuốt lời lẽ cho đẹp, cho hoa mỹ, cho lạ tai để thỏa mãn tình cảm lãng mạn trong lòng trong một lúc mà nhiều khi đâm ra sáo rổng, không có lợi ích gì cho cuộc sống nhân sinh cả! Như một đoạn của bài "Táng Hoa Ngâm" Khúc Ngâm Chôn Hoa ) trong Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần sau đây :
            Nguyện nông thử nhật sinh song dực,
                 願儂此日生雙翼,
            Tùy hoa phi đáo thiên tận đầu,          
                 隨花飛到天盡頭。
            Thiên tận đầu...                          
                 天盡頭...
            Bất tri hà xứ hữu hương khâu?    
                 不知何處有香丘 ?
            Vị nhược cẩm nang thu diễm cốt...
                 未若錦囊收艷骨,
            Nhất phôi tịnh thổ yễm phong lưu!
                 一抔凈土掩風流 !
Có nghĩa :
     Ta ước gì hôm nay được chấp vào đôi cánh, để...
     Cùng những xác hoa bay đến tận cuối trời,
     Ở nơi cuối trời xa xăm đó...
     Không biết là nơi đâu sẽ có được mồ thơm mả đẹp?!
     Vì chưa sẵn sàng túi gấm để nhặt lại những cánh hoa rơi, thôi thì đành...
     dùng một nắm đất tinh khiết nầy mà vùi lấp đời phong lưu của những cánh hoa rụng bên thềm!

                          Image result for 林黛玉葬花
 
                           Image result for 林黛玉葬花

             HỒNG LÂU MỘNG : Lâm Đại Ngọc táng hoa.

      TẢI 載 còn có nghĩa là NĂM, như ta đã biết qua câu thơ nổi tiếng của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu là :
          Bạch vân THIÊN TẢI không du du!
              白雲千載空地悠悠!
mà cụ Tản Đà đã dịch là :
              NGÀN NĂM mây trắng bây giờ còn bay!
      Trong Kiều, sau khi báo ân báo oán, Giác Duyên từ biệt ra đi, thì Kiều đã giữ lại bằng câu :
               Nàng rằng: "THIÊN TẢI NHẤT THÌ,
          Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn?!
               Rồi đây bèo hợp mây tan,
          Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu!

    THIÊN TẢI NHẤT THÌ 千載一時 : Ta nói là "Ngàn Năm Một Thuở" Ý nói là Lâu Lắm mới có được một lần! Sẵn xin được nói luôn về từ
    BÀN HOÀN 盤桓 : là Nấn ná, Lưu Luyến, là Ở nán lại, là Thơ Thẩn, là Tâm sự vụn vặt... Nên câu "Cố nhân đã dễ mấy khi BÀN HOÀN" có nghĩa là: Bạn bè cũ lâu ngày gặp mặt, hiếm khi có dịp để cùng tâm sự vụn vặt với nhau! Khác hẵn với từ BÀNG HOÀNG 徬徨 là Ngỡ Ngàng, là Cảm thấy Hụt Hẫng.
4. BỘ THẦN   :
    THẦN   : là Giờ Giấc. THẦN 辰 là chữ Tượng Hình theo diễn tiến của chữ viết như sau:
  
甲骨文金文金文大篆小篆繁体隶书
Ta thấy :
     Tất cả những Hình tượng từ Giáp Cốt văn cho đến Kim Văn và Đại Tiểu Triện đều là hình của con sò lớn đang há miệng ra như đang hoạt động, sau do cách dùng Giả Tá mà phát sinh ra nghĩa chỉ thời gian, nên ta có từ THỜI THẦN 時辰 là GIỜ GIẤC, cái Đồng Hồ chỉ giờ giấc gọi là THỜI THẦN CHUNG 時辰鐘.
      Chữ THẦN 辰  nầy còn được đọc là THÌN, khi dùng để chỉ ngôi thứ 5 của Địa Chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, THÌN 辰 ... biểu tượng trong 12 con Giáp là con RỒNG. Giờ THÌN là từ 7 cho đến 9 giờ sáng. 
      SINH THẦN 生辰 : là Sinh Nhật, là một cách gọi khác để chỉ ngày sinh cho trịnh trọng hơn. Chúc sinh nhựt cho người trẻ tuổi thì viết là SINH NHẬT KHOÁI LẠC 生日快樂; chúc sinh nhựt cho người cao niên thì viết là SINH THẦN DU KHOÁI 生辰愉快. Cả 2 cách nói đều có nghĩa là SINH NHẬT VUI VẺ!
      TINH THẦN 星辰 : Chỉ chung các Ngôi Sao trên trời. Từ dùng để gọi chung tất cả những tinh tú trên trời là NHẬT NGUYỆT TINH THẦN 日月星辰 : là Mặt Trời, Mặt Trăng và Các Vì Sao.

     Image result for 日月星辰 Image result for 日月星辰
       NHẬT NGUYỆT TINH THẦN 日月星辰

       Có tất cả 5 chữ được ghép bởi bộ THẦN nầy, tiêu biểu là:
    NÔNG 農 : là Ruộng. Cái nghề phải làm đúng giờ giấc của Thời Vụ. Đó là nghề trồng Nông Phẩm gồm Ngũ Cốc, Qua Qủa, Rau Cải... Các từ thường gặp là: NÔNG GIA 農家, NÔNG DÂN 農民, NÔNG NGHIỆP 農業, NÔNG PHẨM 農品, NÔNG SẢN 農產 ...
              Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt,
                 爵有五士居其列,
              Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên. 
                 民有四士為之先。
     Đó là 2 câu thơ chữ Hán mở đầu bài hát nói Kẻ Sĩ của cụ Nguyễn Công Trứ, có nghĩa: Tước có 5 bậc thì Sĩ được xếp trong đó, còn dân có 4 bậc, thì Sĩ đứng đầu, đó là :
     SĨ NÔNG CÔNG THƯƠNG 士農工商: gọi là TỨ DÂN: 4 bậc dân chúng. Ngày xưa, các cụ cũng hay hát nhạo là:
                       Nhất SĨ nhì NÔNG,
                       Hết gạo chạy rong,
                       Nhất NÔNG nhì Sĩ!
     NÔNG LỊCH 農曆: là Lịch của Nhà Nông noi theo để canh tác cho đúng thời vụ, còn gọi là ÂM LỊCH 陰曆: Lịch tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay quanh qủa Đất. Không cần biết tháng thiếu đủ như thế nào, hễ ngày RẰM (15) thì Trăng Tròn.
      Sau năm 1975, dưới chế độ Cộng Sản, chữ NÔNG sản sinh thêm được mấy từ mới nữa, đó là: NÔNG HỘ 農戶, NÔNG HỘI 農會, NÔNG TRƯỜNG 農場, NÔNG NGHIỆP HỢP TÁC XÃ 農業合作社, CÔNG NÔNG LIÊN MINH 工農聯盟 ...
           
  Image result for công nông liên minh    Image result for 工農聯盟   Image result for 工農聯盟
   Công Nông Liên Minh của Cộng Sản Việt Nam & Trung Quốc
      NHỤC 辱 : Trái với VINH. Nghĩa gốc của NHỤC là Không Làm Nên, là Vô Tích Sự, là Sỉ NHỤC 耻辱: là Lấy làm Mắc Cở. Còn SỈ NHỤC người khác, là làm cho người ta mất mặt trước đám đông.

      VŨ NHỤC 侮辱 : là Hiếp đáp và làm nhục người khác.

      NHỤC MẠ 辱罵 : là Chưởi rũa để hạ nhục người khác.

      SĨ KHẢ SÁT BẤT KHẢ NHỤC 士可殺不可辱: Kẻ sĩ có thể giết chớ không thể làm nhục được.

      Ông Bà ta cũng thường khuyên răn con cháu:

        Tri túc thường túc, chung thân bất NHỤC.                          知足常足,終身不辱。

        Tri chỉ thường chỉ, chung thân bất sỉ.
                 知止常止,終身不恥。

Có nghĩa :

     Biết lúc nào đủ thì nên đủ, (không đòi hỏi thêm) thì suốt đời sẽ không bị nhục (vì qúa tham lam!)

     Biết lúc nào nên ngừng thì ngừng, (không đòi hỏi qúa đáng) thì suốt đời sẽ không bị mất mặt, tỏn tè, nhục nhã!



5. BỘ XÍCH  :

    XÍCH   : là màu ĐỎ THẨM. XÍCH 赤 là chữ dùng Tượng Hình để Hội Ý, theo diễn tiến của chữ viết như sau :

甲骨文金文金文大篆小篆繁体隶书

Ta thấy :

     Giáp Cốt Văn là hình tượng của một người dang hai tay hai chân ở trên, bên dưới là lửa, đến Đại Tiểu Triện thì hình thành hẵn chữ Đại ở trên, chữ Hỏa ở dưới, với Hội Ý người bị căng ra đem nướng trên lửa thì sẽ bị... ĐỎ lên, nên Xích là Màu Đỏ xậm là vì thế. Ta hay nghe từ XÍCH TỬ 赤子 là Con Đỏ, là con nít mới sanh còn đỏ hỏn. Ông quan tốt là ông quan biết thương dân như thương con đỏ. Dân thường ngày xưa gọi là Con Đỏ, còn bây giờ, phó thường dân ta gọi là Dân Đen (Dân Ngu Khu Đen).

       XÍCH THỐ Mà赤兔馬 : Xích Thố là con THỎ ĐỎ, nhưng Ngựa XÍCH THỐ là tên con ngựa của Quan Vân Trường cỡi ở đời Tam Quốc, có màu đỏ thẫm.

       XÍCH ĐẠO 赤道 : là Đường tròn tưởng tượng bao quanh Địa Cầu có chiều dài khoảng 40.075,0 km, hay 24.901,5 dặm, nằm ở Vĩ độ 0°, chia Trái Đất ra làm 2 phần Bắc Bán Cầu và Nam Bán Cầu. Thời tiết nóng nực quanh năm vì nhận ánh sáng trực tiếp thẳng góc của Mặt Trời. Dân cư thường là da đen hoặc da đỏ. Vì thế mà được gọi  tên là XÍCH ĐẠO.

       XÍCH 赤 còn có nghĩa là : Không Mang Mặc gì cả, như XÍCH THÂN 赤身 là Ở trần ở truồng. XÍCH THÂN LOÃ THỂ 赤身裸體 : là Trần Truồng như nhộng. XÍCH CƯỚC 赤腳 là Đi chân không. XÍCH CƯỚC ĐẠI TIÊN 赤腳大仙 là Ông Tiên đi chân không, XÍCH THỦ KHÔNG QUYỀN 赤手空拳 là Tay Không không có cầm binh khí gì cả!

Ngựa Xích Thố 
                               
                              Đường Xích Đạo 



                    Xích Cước Đại Tiên

     NHĨ XÍCH KIỂM HỒNG 耳赤臉 紅: hay DIỆN HỒNG NHĨ XÍCH 面紅耳赤 cũng thế, ta nói là Đỏ Mặt Tía Tai, để chỉ mắc cở hay là đang Giận dữ.

      XÍCH HUYỆN THẦN CHÂU 赤縣神州: là Tên riêng để gọi xứ Trung Nguyên ngày xưa. Xuất xứ từ Sử Ký, chương Mạnh Tử Tuân Khanh liệt Truyện: Trong đời thượng cổ, Viêm Đế là Hỏa Đức Vương, nên đất đai thuộc ông ta cai quản gọi là XÍCH HUYỆN  (là Huyện Đỏ vì lửa thuộc màu Đỏ), còn đất của Huỳnh Đế thống lĩnh thuộc Thổ Đức Vương, nên gọi là THẦN CHÂU (Châu Huyện của Thần ở). Sau khi Huỳnh Đế thắng Viêm Đế để thống nhất đất nước, mới gọp chung lại gọi là XÍCH HUYỆN THẦN CHÂU hay THẦN CHÂU XÍCH HUYỆN gì cũng thế.

        HỒNG DIỆP XÍCH THẰNG 紅葉赤繩: là Lá Đỏ mà Dây cũng Đỏ luôn. Ta nói là LÁ THẮM CHỈ HỒNG:

        LÁ THẮM là HỒNG DIỆP ĐỀ THI 紅葉題詩: Đề thơ trên lá đỏ. Có 3 tích, ở đây ta chỉ nhắc tích thứ 3 được nhiều người biết đến nhất. Theo Thanh Tỏa Cao Nghị và Thái Bình Quảng Ký, đời Đường Hi Tông thư sinh Vu Hựu nhặt được một chiếc lá dưới dòng Ngự câu từ trong cung trôi ra, trên có bài thơ ngũ ngôn :

            Lưu thuỷ hà thái cấp ?         流水何太急 ?

            Thâm cung tận nhật nhàn.   深宮盡日閒。

            Ân cần tạ hồng diệp,            殷勤謝紅葉,

            Hảo khứ đáo nhân gian!       好去到人間!

Có nghĩa :

                       Nước chảy sao vội thế ?

                       Trong cung suốt buổi nhàn.

                       Ân cần nhờ là đỏ,

                       Đưa đến chốn nhơn gian!

       Vu Hựu cảm thương cho người cung nữ tài hoa, nàng đã gọi thế giới bên ngoài là "Nhơn Gian", thế thì ở trong cung cấm là gì? "Địa Ngục" sao?  Chàng bèn lên phía thượng lưu của ngự câu, thả trở vào cung bài thơ thất ngôn như sau:

          Hoa lạc thâm cung oanh diệc bi,      
                花落深宮鶯亦悲,

          Thượng Dương cung nữ đoạn trường thì.
                上陽宮女斷腸時。

          Quân ân bất bế đông lưu thủy,    
                君恩不閉東流水,             

          Diệp thượng đề thi ký dữ thuỳ?                
                葉上題詩寄與誰?           

Có nghĩa :

          Hoa rụng cung sâu oanh cũng sầu,

          Thượng Dương cung nữ quặn lòng đau.

          Ơn vua chẳng bế dòng câu chảy,

          Trên lá đề thơ gởi đến ai?!

       Sau vua cho thải ba ngàn cung nữ về quê lấy chồng, Vu Hựu lấy được Hàn Thị từ trong cung mới thải ra. Đêm tân hôn, Hựu thấy trong trap của cô dâu có một phiến lá đỏ, trên lá là bài thơ của mình khi trước, chàng cũng lục rương của mình lấy bài thơ của Hàn Thị từ trong cung gởi ra. Hai vợ chồng nhìn nhau xúc động, ôm chầm lấy nhau nức nở, cho là duyên trời run rủi, mượn lá thắm để se duyên.



        Image result for 紅葉題詩  Image result for 紅葉題詩
                           Image result for 紅葉題詩

            Hồng diệp đề thi: Lá thắm đề thơ



     XÍCH THẰNG 赤繩 : là Sợi dây đỏ, Đúng ra là Hồng Tuyến 紅線 : là Sợi chỉ đỏ. Tích nầy có liên quan đến NGUYỆT HẠ LÃO NHÂN 月下老人: là Ông gìa dưới trăng mà thường được gọi tắt là NGUYỆT LÃO.

Theo Tục U Quái Lục của Lý Phục Ngôn đời Đường:

      Thư sinh Vi Cố lúc còn trẻ, một đêm, khi đang ở trọ tại một khách sạn tại Tống thành, gặp một ông lão đang ngồi dưới ánh trăng giở xem một quyển Vô Tự Thiên Thư (Sách Trời không có chữ). Vi Cố lấy làm lạ, hỏi, thì được đáp rằng: Đó là "Uyên Ương Phổ", tức là quyển sách ghi chép chuyện hôn nhân của trai gái trên đời nầy. Vi Cố mới hỏi về hôn sự của mình, thì Ông lão giở sách xem và cho biết rằng: "Mười bốn năm sau, cậu sẽ cưới cái con bé 3 tuổi con của mụ bán cải ở cuối chợ kia kìa!" Vi Cố thấy con bé xấu xí, muĩ dãi thò lò, lòng rất bất mãn, bèn thuê người hành thích bé. Liên tiếp những năm sau đó, Vi Cố đều lận đận trong thi cử, quan trường, nên mười bốn năm sau mới cưới vợ. Đêm tân hôn, thấy ở cuối mày cô dâu có một vết sẹo. Vỡ lẽ ra, mới biết cô vợ trẻ đẹp của mình chính là cô bé năm xưa mà mình đã thuê người giết hại.

         Viên Huyện Tể ở Tống Thành biết chuyện, lấy làm lý thú, bèn cho đổi tên khách sạn đó thành "Định Hôn Điếm 定婚店" và ông lão ngồi xem sổ ở dưới trăng là "Nguyệt Hạ Lão Nhân 月下老人". Trước mắt ở Hàng Châu còn có di tích miếu thờ Nguyệt Lão với đôi câu đối rất nổi tiếng mà giới văn học không ai không biết:

        Nguyện thiên hạ hữu tình nhân chung thành liễu quyến thuộc,

           願   天    下   有   情    人       终      成     了    眷      屬,

        Thị tam sanh chú định sự mạc thác qúa lương duyên .

           是  三   生    註    定   事   莫    錯    過    良     緣。

Có nghĩa :

    Mong cho người hữu tình trong thiên hạ đều được nên gia thất,    

     Chuyện ba sinh đà định sẵn chớ để lỡ mất nhân duyên.

        Image result for 月下老人  Image result for 月下老人
                                  Image result for 月下老人


                      Vi Cố và Tích Nguyệt Hạ Lão Nhân

      Bị tiếng sét ái tình sau lần đầu gặp gỡ: "Ví chẳng duyên nợ ba sinh, Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi?", Kim Trọng mới lần mò sang nhà của Thúy Kiều thì thấy:

           Thâm nghiêm kín cổng cao tường,

    Cạn dòng LÁ THẮM, dứt đường chim xanh!

   ... Đến buổi lần đầu hẹn hò gặp gỡ khi "Nhà lan thanh vắng một mình", thấy Kim Trọng có điều đòi hỏi, thì Kiều đã:

                Nàng rằng: "HỒNG DIỆP XÍCH THẰNG,

           Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri.

                Đừng điều nguyệt nọ hoa kia,

           Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai?!
 

     ... Kiều luôn luôn giữ tròn gia giáo với câu "Áo mặc sao qua khỏi đầu" nên đã giải bày cùng Kim Trọng là ...

                   "Dù khi LÁ THẮM CHỈ HỒNG,

                Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha!

                     Nặng lòng xót liễu vì hoa,

                Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa!

                                             (Sạo dễ sợ !!!)



6. BỘ XƯỚC  (辶): Còn đọc là SƯỚC, TRÁC.

    XƯỚC   (辶) : là Chợt Đi Chợt Dừng, là Cà Giựt. XƯỚC 辵 là một Bộ Thuấn Túy, chỉ dùng để ghép và tạo chữ theo diễn tiến chữ viết như sau:

                          

            Đại Triện      Tiểu Triện     Lệ Thư       Khải Thư

Ta thấy :

     XƯỚC 辵 là do bộ XÍCH ㄔ là Bước Chân và chữ CHỈ 止 là Dừng lại, nên XƯỚC có nghĩa là Đi Đi Dừng Dừng, Cà Giựt là vì thế. Tất cả gồm có 220 chữ được ghép bởi bộ XƯỚC nầy, tiêu biểu có :

     QÚA 過 ( 过 ) : là Qua, là Đi Qua. Vừa chỉ...

    * Không gian, như : QÚA GIANG 過江 là Qua Sông. QUÁ LỘ 過路 là qua  Đường, QÚA KHÁCH 過客 là Khách qua đường...

    * Thời gian, như : QÚA KHỨ 過去, QÚA TRÌNH 過程, QÚA ĐỘ 過渡, KINH QÚA 經過 là Trải Qua, là Từng Trải...

     QÚA là Qua xử lý, như : KHÁN QUÁ 看過 là Xem qua. NGHIỆM QÚA 驗過 là Đã Khám qua....

     QÚA còn có nghĩa là Vượt Trội, là Hơn. Như : QÚA VU 過于 là Hơn cả. QÚA TƯỞNG 過獎 là Qúa Khen (lời khiêm tốn!)  ĐẠI HỈ QÚA VỌNG 大喜過望 là Sự mừng rỡ còn vượt trội hơn cả mong đợi. 

     QÚA còn có nghĩa là Lỗi Lầm, là Sai Trái. Như TỘI QÚA 罪過 là Tội Lỗi. TƯ QÚA 思過 là Suy nghĩ về những lỗi lầm mắc phải. Ta có thành ngữ hay gặp của Phật Giáo và thường thấy trong truyện võ hiệp, khi có đệ tử lầm lỗi thì phạt phải: 

     DIỆN BÍCH TƯ QÚA 面壁思過: là Ngồi xây mặt vào vách để suy nghĩ về những lỗi lầm của mình đã mắc phải, làm ta nhớ đến trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, nhân vật chính là Lệnh Hồ Xung bị sư phụ phạt phải lên Tư Qúa Nhai để Diện Bích Tư Qúa về những sai trái của mình.

      TRI QÚA NĂNG CẢI, THIỆN MẠC ĐẠI YÊN 知過能改,善莫大焉?: Có nghĩa: Biết lỗi mà sửa sai, thì cái tốt chẳng lớn lắm hay sao?! Câu nói trên có xuất xứ từ Tả Truyện Tuyên Công Nhị Niên, nguyên văn như sau: Nhân phi thánh hiền, Thục năng vô qúa, qúa nhi năng cải, thiện mạc đại yên 人非聖賢,孰能無過. 過而能改,善莫大焉: Có nghĩa: Người chớ đâu phải thánh hiền, ai mà không có lỗi, nhưng có lỗi mà biết sửa đổi, thì cái thiện chẳng lớn lắm hay sao?!

      Khi "Báo ân rồi mới trả thù", cô Kiều cũng đã rất rộng lượng mà tha tội cho Hoạn Thư :

               "Đã lòng TRI QÚA thì nên, 

       Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay 

* Câu "Đã lòng TRI QÚA thì nên"  có nghĩa: Đã có lòng BIẾT LỖI  thì thôi (ta sẽ không chấp nhứt nữa!)

          Image result for 令狐沖 面壁思過
                         Diện Bích Tư Qúa  
                           Image result for kiều tha hoạn thư là đúng hay sai
                         Kiều tha Hoạn Thư


     QÚA HÀ SÁCH KIỀU 過河拆橋: là Qua Sông Tháo Cầu, ta nói là "Qua Cầu Rút Ván" thường dùng để chỉ những người vong ân bội nghĩa, làm chuyện trái với lương tâm,"Ăn cơm Tui mà hại Tao." 

     QÚA QUAN TRẢM TƯỚNG 過關斬將 \: là Qua ải chém tướng, ta nói là "Chém tướng đoạt thành." Khi phò nhị tẩu đi tìm Lưu Bị, Quan Công đã "Qúa Ngũ Quan, Trảm Lục Tướng 過五關,斬六將 " (Qua năm ải, chém sáu tướng) lưu danh trung nghĩa cho hậu thế mãi đến ngày nay.       

    

7. BỘ ĐẬU 豆 :

    ĐẬU  豆 : là Đậu, một loại nông phẩm thuộc Song Tử Diệp, có trái dài cho hột tròn ở bên trong. ĐẬU 豆 là chữ Tượng Hình theo diễn tiến của chữ viết như sau :

甲骨文金文金文大篆小篆繁体隶书

Ta thấy :

     Từ Giáp Cốt Văn cho đến Tiểu Triện đều là hình tượng của một cái Mâm, cái Khai có nắp đậy dùng để đựng thức ăn của thời cổ đại, xuất hiện ở cuối thời kỳ đồ đá mới, thịnh hành khoảng đời nhà Thương, nhà Chu (1600-221 trước Công Nguyên), sau do Gỉa Tá và diễn biến của ngôn ngữ, dần dần mất đi nghĩa gốc của lúc ban đầu, đến đời Hán trở về sau, hễ nhắc đến ĐẬU là người ta nghĩ ngay đến loại nông phẩm dùng để ăn, chớ không ai còn biết ĐẬU là dụng cụ dùng để đựng. Như trong bài thơ bảy bước mà Tào Thực đã làm theo lệnh của anh mình là Tào Phi, lúc bấy giờ là Ngụy Văn Đế (187-226) đã ra đề "ANH EM" nhưng không cho dùng từ ANH EM, và hạn trong vòng bảy bước phải làm xong bài thơ (Bài thơ nầy thường được gọi là "THẤT BỘ THI 七步詩: Bài thơ Bảy Bước"), nếu không xong sẽ xử tội khi quân. Khi Tào Phi vừa đi xong bảy bước thì Tào Thực đã cất giọng ngâm:

        煮豆燃豆萁,    Chử đậu nhiên đậu ki,
        豆在釜中泣。    Đậu tại phủ trung khấp.
        本自同根生,    Bổn tự đồng căn sanh,
        相煎何太急?     Tương tiễn hà thái cấp ?

Có nghĩa :

        Dùng thân cây đậu làm củi để nấu đậu, nên...

        Đậu trong nồi đang than khóc với nhau.

        Vốn cùng chung một gốc rể sanh ra, lại...

        Đốt nấu lẫn nhau như thế, có nhẫn tâm lắm không ?

    Tào Phi nghe xong, cảm động, ôm chầm lấy em mà khóc. Từ đó về sau không còn có ý giết hại em mình nữa. Sau nầy, khi đề cập đến anh em hà khắc lẫn nhau, hay cốt nhục tương tàn, người ta hay nhắc đến thành ngữ "CHỬ ĐẬU NHIÊN KI 煮豆燃萁" là do tích nầy mà ra.





             
                  Thất Bộ Thi của Tào Thực

      Tương truyền, nước Nam ngày xưa, gồm Lưỡng Quảng bây giờ, có người chinh phụ hay tin chồng đã chết ở chiến trường, nên đau lòng khóc thương đến chết ở bờ rào. Ít lâu sau nơi đó mọc lên một dây đậu trổ ra toàn là đậu đỏ. Dân làng gọi đó là "Tương Tư Tử 相思子": là Hạt Nhớ Nhau. Trong Đường Thi có bài thơ Tương Tư 相思 nổi tiếng của Vương Duy nhắc đến loại Đậu Đỏ nầy:

        Hồng ĐẬU sanh nam quốc,     紅豆生南國,

        Xuân lai phát kỷ chi ?            春來發幾枝 ?

        Nguyện quân đa thái hiệt,      願君多採擷,

        Thử vật tối tương ti (tư).        此物最相思。

Diễn nôm :

                      Nước Nam có đậu hồng,

                      Xuân về trổ mấy bông?

                    Xin người hái lấy để trong

              Áo xiêm xao xuyến cho lòng nhớ nhau!



     TÁT ĐẬU THÀNH BINH 撒豆成兵 : hay "Sái đậu thành binh" cũng thế, là Hốt lấy một nắm đậu niệm chú xong rải ra sẽ thành ra một đội quân binh hùng mạnh đánh đuổi kẻ địch.










    Tát Đậu Thành Binh         Hồng đậu sanh Nam Quốc

        Có tất cả 15 chữ được ghép bởi bộ ĐẬU nầy, tiêu biểu có :

     PHONG 豐 : là Đầy Đặn, Dồi Dào. như PHONG MÃN 豐滿, PHONG PHÚ 豐富, PHONG THỊNH 豐盛, PHONG DINH 豐盈 đều có nghĩa là Rất đầy đủ, rất giàu có, rất dư dã... Tôi là dân Nam Kỳ Lục Tỉnh, tôi được sinh ra ở ấp Yên Thượng, Xã Thường Thạnh, Thị trấn Cái Răng, Huyện Châu Thành, tỉnh PHONG DINH, Thủ Phủ của tỉnh Phong Dinh là Thị Xã Cần Thơ, được mệnh danh là TÂY ĐÔ của Miền Tây Nam Bộ. Sau 1975, tỉnh Phong Dinh được đổi tên thành tỉnh Hậu Giang.
      PHONG Y TÚC THỰC 豐衣足食: là Đầy đủ áo mặc đầy đủ cơm ăn. Ta nói là "Áo Cơm Đầy Đủ", chỉ cuộc sống sung túc.

      NGŨ CỐC PHONG ĐĂNG 五穀豐登: là 5 loại lúa đều trổ bông đầy đủ. Đây là Thành ngữ chỉ Canh tác được mùa. Bà con thường nói là "Đồng Ruộng Trúng Mùa!"

       MAO VŨ VỊ PHONG 毛羽未豐: là lông măng lông ống chưa đầy đủ. Ta nói là "Chưa đủ lông chưa đủ cánh" ý chỉ còn non nớt chưa làm được chuyện lớn.

       PHONG 豐 còn thông dụng với PHONG 風, chỉ cái Dáng Dẻ của con người, như PHONG THÁI 豐態: là Tính Cách và Dáng Dẻ của con người, PHONG TƯ 豐姿 cũng vậy, Ta đã từng biết từ nầy qua lời giới thiệu Phong Thái và Tư Cách chàng Kim Trọng của cụ Nguyễn Du:

             PHONG TƯ tài mạo tuyệt vời,

     Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa!

       PHONG VẬN 豐韻 : là Cái Dáng vẻ thanh thoát toát ra ở bên ngoài, như khi Kiều chiêm bao thấy Đạm Tiên:

              Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,

      Có chiều PHONG VẬN có chiều thanh tân.








            
          Kiều gặp Kim Trọng và  về nhà mơ thấy Đạm Tiên     

        Như thường lệ, trước khi kết thúc bài viết nầy, mới tất cả cùng đoán một chữ sau đây:

          Kiệu dã bất, Mã dã bất,       轎也不,馬也不,

          Xa dã bất, thuyền dã bất.    車也不,船也不.

          Kim nhựt nhị thập cửu,        今日 二十九,

          Minh nhựt tựu sơ nhất!       明日就初一。

Có nghĩa:

        Kiệu cũng không, Ngựa cũng không,

        Xe cũng không mà thuyền cũng "hổng thèm!"

        Hôm nay hai mươi chín,

        Ngày mai mùng một rồi đó em!



               Gộp 4 câu trên lại thành MỘT CHỮ.

                        Mời tất cả cùng ra tay!

         Hẹn gặp lại bài sau: Các bộ 7 nét TT.


                                 Đỗ Chiêu Đức
   Mời xem : Chữ Nho Dễ hoc Bài 22

1 nhận xét:

Tạp Ghi và Phiếm Luận: Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ (Dỗ Chiêu Đức)

  Tạp Ghi và Phiếm Luận :                Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ                                       Ăn x ổi  ở th ì,...