Rút từ facebook của Dạ Ngân)
Năm 1963, bé 11 tuổi lần đầu được người cô trời
biển đưa đi Sài Gòn. Cô ấy là cô Ràng trong Miệt Vườn Xa Lắm và Gia Đình
Bé Mọn (tên thực của cô là Rỡ, cô Tư Rỡ). Tinh khôi tới tận bây giờ cảm
xúc với những thứ có tên lần đầu. Lần đầu Xa cảng Miền Tây, lần đầu xe
thổ mộ miền Đông, lần đầu tàu hũ Chợ Lớn, lần đầu tô phở Bắc, lần đầu
que kem Tân Sơn Nhất, lần đầu xi nê rạp Nam Quang…Mấy ngày sau bé đã úp
mặt vô tường nhớ vườn nhà nhớ má nhớ chị nhớ em và lần đầu biết cảm giác
miếng cơm hớp nước nhà người!
Gần 20 năm sau, thiên lý văn chương cho cô bé
ngày xưa lùng nhùng với một nhà văn đi từ Hà Nội vào, cả hai ưa vắt vẻo
trên xe đạp đi xuyên tâm Sài Gòn. Tâm trạng mắc cạn khi “va phải” tình
yêu trong bối cảnh ngặt nghèo không biết ngày sau ra sao, chúng tôi khám
phá những phận người. Em bảo bến thổ mộ đi Bà Điểm mãi năm bảy lăm vẫn
còn à? Cửa chợ An Đông đây, chiếc ba gác cô Tư để em ngủ nhờ qua đêm
trên đó ở góc nào? Ồ, cô Tư dám để em ngủ thế rồi đi sang nhà vựa cầu
Ông Lãnh cất hàng ư? Sao chỉ có bến xe miền Tây gọi là Xa cảng, anh
thích cái tên Xa cảng, hay và rất đặc trưng. Em thấy đó, nếu chúng ta
không kiên nhẫn thu xếp đời mình, thì sẽ văng khỏi biên chế, anh đi bơm
xe lề đường còn em thì làm gì, bán bánh mì hay bán bắp luộc, khi đó
chẳng văn chương thơ phú gì nữa nhá, chỉ có địa ngục ở ngay dưới lòng
kênh Nhiêu Lộc đen ngòm kia.
Trong một quán cà phê bên bờ Thanh Đa, Nguyễn
Quang Thân như một du khách tần mần với sự khác nhau giữa Sài Gòn và Hà
Nội. Dòng chảy này đến từ đâu? Những cây me thời Việt Nam cộng hòa nối
với tinh thần đô thị của người Pháp là trồng cây lá kim không làm nghẹt
cống vào mùa mưa, hoặc là cây rừng già như cây sao bởi đó là loại cây rễ
thọc sâu chứ không rễ ngang như cây bàng. Quá rộng lớn và nhiều người
lam lũ, cho thấy vệ tinh Sài Gòn là một biển nông dân nguyên sơ chứ
không phải nông dân hợp tác xã nón cối, tác phong làm theo kẻng như miền
Bắc. Cả những quán cà phê với ghế với những cái ly này nữa, Sài Gòn
từng là thủ đô của một quốc gia, đúng, hai miền như thể là hai nước vậy…
Câu chuyện cứ đưa chúng tôi lan man vì sao tuột cơ hội vào Liên hiệp
Pháp, vì sao người Mỹ nhảy vào và sa lầy, vì sao và vì sao.
Từ Nguyễn Quang Sáng, Thu Bồn, Nguyễn Duy… những
người nhiều duyên nợ với Hà Nội niềm tin và hy vọng, chúng tôi khám phá
thượng tầng của Sài Gòn qua Sơn Nam, Trang Thế Hy, Trịnh Công Sơn…Ánh
sáng của Sài Gòn bật lên không phải trước mắt chúng tôi mà như thể bên
trong chúng tôi, càng nhiều năm tháng nó càng lấp lánh vui. Cả hai chúng
tôi đều thích nghe Hận Đồ Bàn bằng giọng của chính Chế Linh và cùng
thích Khánh Ly với Một Chuyến Bay Đêm. Có gì đó như thể trái khoáy ở sự
thích này, lý giải về thích Hận Đồ Bàn dễ hơn, như xưa mình thích Điêu
Tàn của Chế Lan Viên. Nhưng Một Chuyến Bay đêm viết về một sĩ quan không
quân Việt Nam cộng hòa kia mà? Ô, vẻ đẹp nhân văn là không biên giới và
không có tính gì, tính chiến tuyến càng không, vẻ đẹp của nghệ thuật
đích thực không có tính gì ngoài tính nhân văn! Và Sài Gòn đã đem đến
cho chúng tôi điều quan trọng nhất: dù chính quyền không mấy nhân văn
thời kỳ hòa hợp hòa giải nhưng mỗi thường phận của hai bên đã tự ngồi
lại với nhau đàm đạo, có khi cùng thở dài, thậm chí cùng tranh luận
nhưng người của hai bên đang sóng đôi với nhau và cùng ưu tư với hiện
tình đất nước.
Nhiều khoảnh khắc thăng hoa khiến không còn chạnh
lòng bởi cơm áo gạo tiền ở tương lai khi hai nhà văn về chung một nhà ở
đâu đó, Hà Nội hoặc Sài Gòn. Thích ngồi bên bếp nhà bác Trang Thế Hy
trong căn hộ ở Nam Kỳ Khởi Nghĩa để xem bác nấu ăn như thể làm đề cương
tiểu thuyết và lắng nghe thuyết lý “đi chỗ khác chơi”. Thích bộ hành với
Sơn Nam trên vỉa hè đẫm lá sao và hoa sao vào những chiều sắp có giông,
đôi lần nghe ông căn dặn “Đứa nào kêu mình viết vậy là dâm thư thì đập
vô mặt nó, đàn bà viết mà không sexy viết văn làm gì!”, ông nói mà không
cười nhưng Nguyễn Quang Thân sướng điên lên. Và trước mặt Trịnh Công
Sơn ở nhà Thu Bồn thì tiếng guitar trong tay người nhạc sĩ tài danh này
bao giờ cũng khiến chúng tôi đắm chìm, trang trọng.
Một lần Nguyễn Quang Thân đề nghị Sơn Nam phát
hiện một điểm khác nhau quan trọng nhất giữa Hà Nội và Sài Gòn. Ông già
trầm ngâm hồi lâu: “Hà Nội là thành phố không dân, đúng chưa, ai cũng ở
trong guồng ăn lương, tư duy khác, nết ăn nết ở khác. Còn Sài Gòn là
thành phố của dân, đừng, đừng nghĩ giống với luận điệu của các ổng mở
miệng ra là do dân vì dân à nghen. Thành phố của dân là thành phố rất
đông người dân, dân đen, dân thường, những người làm nên bản sắc đầu tàu
thương mại của Sài Gòn!” Có lẽ, quá đúng, một tổng kết thần kỳ!
Giai do tiền định, cuối đời Nguyễn Quang Thân và
tôi chọn Sài Gòn và luôn muốn gọi nó là Sài Gòn. Nhiều người lầm than
hơn nhưng tư thế thủ đô một thời nằm ở sứ mệnh của nhiều con người còn
muốn đóng góp để làm sáng lại vẻ lấp lánh xưa. Có những khoảng trống cho
Sài Gòn bởi sự ra đi của những kỳ nhân. Nhìn lên những tán cây ta thấy
lại họ, cắm cúi bước ta cũng nghe thấy họ nhắc nhở ta. Một thời hoa lệ
và cũng là một thời vàng son, có lặp lại không? Điều đó phụ thuộc rất
nhiều vào tâm sức của lớp người tinh hoa, và cũng còn do những người cần
lao có được sống, được vui, được thụ hưởng những gì từ thượng tầng làm
ra cho họ không nữa.
Chúng tôi đã từng mong mình là một hạt phù sa của
Sài Gòn. Ngay cả khi chết đi rồi, Nguyễn Quang Thân cũng muốn mình phải
đẹp trong lòng bạn bè văn giới báo giới và độc giả của mảnh đất mà anh
vẫn ca ngợi là bao dung và nghĩa hiệp.
(*) Bài trên Người Đô Thị số tháng Tư. Một tờ báo rất ít khi can thiệp chữ của người viết. (Chú thích của Dạ Ngân)
thành phố rất đẹp
Trả lờiXóa