採蓮曲 THÁI LIÊN KHÚC
白居易 Bạch Cư Dị
菱葉縈波荷颭風, Lăng diệp oanh ba hà chiếm phong,
荷花深處小船通。 Hà hoa thâm xứ tiểu thuyền thông.
逢郎欲語低頭笑, Phùng lang dục ngữ đê đầu tiếu,
逢郎欲語低頭笑, Phùng lang dục ngữ đê đầu tiếu,
碧玉搔頭落水中。 Bích ngọc tao đầu lạc thủy trung.
CHÚ THÍCH :
Lăng Diệp 菱葉 : là Lá Ấu, lá của Củ Ấu.
Oanh 縈 ( còn đọc là Quanh, Vinh ): là Lòng vòng, lẩn quẩn.
Chiếm 颭 : là chữ Hình Thanh, gồm có chữ Phong 風 là Gió chỉ ý, và chữ
Chiêm 占 chỉ âm, nên CHIẾM có nghĩa là : Bị gió lay động.
Tao Đầu 搔頭 : Búi tóc. Danh từ có nghĩa là Cây Trâm.
Bích Ngọc 碧玉 : là Ngọc Bích. là Cẩm Thạch, nên Bích Ngọc Tao Đầu là Cây
trâm bằng Ngọc Bích, bằng Cẩm Thạch. Người Hoa gọi là Ngọc Bích nghe
rất qúy giá. Ta gọi là Cẩm Thạch nghe có vẻ bình dân hơn.
4 bản thư pháp của bài thơ
NGHĨA BÀI THƠ :
Khúc Hát Hái Sen
Lá ấu phủ trên mặt nước làm gợn sóng lăn tăn và những lá sen lay động
trước gió. Trong chỗ sâu thẳm của ao sen chiếc thuyền nhỏ cũng có thể
qua lại được. Gặp chàng muốn nói nên cúi đầu cười e thẹn, làm cho cây
trâm bằng ngọc bích rớt tỏm xuống ao sen !
Khéo ngớ ngẩn mà nên thơ thi vị làm sao ấy ! Không biết "chàng" đây là
người cùng xóm hay là người trong mộng của nàng, 4 chữ " Phùng lang dục
ngữ: Gặp chàng muốn nói " mới mơ hồ làm sao, vì "nó" ở giữa hai đàng:
"Chàng muốn nói hay là Gặp chàng nàng muốn nói ?" để thẹn thùa đến nổi
cúi đầu lơ đểnh ... đánh rơi cành trâm ngọc xuống ao sen !
Qủa là một bức tranh tâm lý sống động thực tế của các cô gái mới đến
tuổi cài trâm rung động bối rối trước mặt người mà mình hằng mơ ước.
DIỄN NÔM :
Sóng vờn lá ấu gió lay sen,
Trong đám hoa xa thuyền nhỏ len.
Muốn nói gặp chàng cười cả thẹn,
Cúi đầu trâm ngọc rớt ao sen !
Lục bát :
Ấu gợn sóng gió lay sen,
Hái hoa thơ thẩn xuồng len trong cùng.
Gặp chàng muốn nói thẹn thùng,
Cuối đầu trâm rớt xuống bùn trong ao !
Sau những người đẹp, những nàng xuân nữ hái sen tình tứ, bây giờ thì ta đọc một bài hái sen của các cô cậu mới lớn nhé !
池上 TRÌ THƯỢNG
白居易 Bạch Cư Dị
小娃撐小艇, Tiểu oa sanh tiểu đĩnh,
偷採白蓮回。 Thâu thái bạch liên hồi.
不解藏蹤跡, Bất giải tàng tung tích,
浮萍一道開。 Phù bình nhất đạo khai.
CHÚ THÍCH :
Tiểu Oa 小娃 : có thể là Bé Trai hoặc Bé Gái. Nhưng thường dùng để chỉ bé Gái, vì chữ OA 娃 có bộ NỮ 女 một bên.
Sanh 撐 : chèo, chống.
Tiểu Đĩnh 小艇 : Chiếc Xuồng con.
Thâu Thái 偷採 : Hái lén, Hái trộm.
Bất Giài 不解 : là Không biết, Không hiểu.
Phù Bình 浮萍 : là Bèo nổi trên mặt nước.
Nhất Đạo 一道 : là Một đường , Một lằn.
NGHĨA BÀI THƠ :
Một cô (cậu) bé con chống một chiếc xuồng con con. Len lén hái trộm sen
trắng trong ao đem về, vì quýnh quáng và không biết cách che đậy dấu
vết, nên còn để lại một lằn bèo trên ao sen do chiếc thuyền nhỏ đi qua .
Dấu đầu lòi đuôi, ăn vụn mà không biết chùi mép, người ta trông vào sẽ
biết là mình vụn trộm ngay. Cái cô bé nầy mới ngây thơ và dễ thương làm
sao ! Cụ Tản Đà nhà ta đã diễn Nôm bằng Lục bát rất hay là :
Người xinh bơi chiếc thuyền xinh,
Bông sen trắng nõn trắng tinh hái về,
Hớ hênh dấu vết khôn che,
Trên ao để một luồn chia mặt bèo !
DIỄN NÔM :
TRÊN AO
Bé chống xuồng tẻo teo,
Sen trắng lén hái theo.
Chẳng biết che dấu vết,
Để lại một lằn bèo !
Lục bát :
Dé con chống chiếc xuồng con,
Lén hái sen trắng nỏn non chống về.
Ngây thơ không biết dấu che,
Để lại một rẻ nước bèo chia hai !
Năm Thái Hòa thứ 9 ( 835 ), Bạch Cư Dị nhậm chức Thái Tử Thiếu Bác Phân
Ty ở Đông Đô Lạc Dương. Một hôm đi dạo trên một bờ ao, trông thấy một
vị sư đang đánh cờ trên bờ ao và một cô bé chống xuồng hái trộm sen dưới
ao. Xúc cảnh sinh tình, ông mới viết nên 2 bài thơ : Một tĩnh một động.
Bài số 2 ta đã đọc ở trên rồi, dưới đây là bài số 1 :
池上 其一 TRÌ THƯỢNG Kỳ 1
白居易 Bạch Cư Dị
山僧對棋坐, Sơn tăng đối kỳ tọa,
局上竹蔭清。 Cục thượng trúc âm thanh.
映竹無人見, Ánh trúc vô nhân kiến,
時聞下子聲。 Thời văn hạ tử thinh.
CHÚ THÍCH :
Sơn Tăng 山僧 : là Ông thầy chùa tu trong núi.
Cục Thượng 局上 : là Trên bàn cờ.
Trúc Âm Thanh 竹蔭清 : là Bóng tre mát mẻ.
Ánh Trúc 映竹 :là Bị rừng trúc che khuất lấp.
Hạ Tử 下子 : Đặt con cờ xuống để đi một nước cờ.
NGHĨA BÀI THƠ :
Một nhà sư trong núi đang ngồi đối diện trước bàn cờ. Bóng trúc mát mẻ
che phủ bàn cờ nên người ngoài không nhìn thấy, chỉ thỉnh thoảng nghe
được tiếng con cờ được đặt xuống bàn cờ mà thôi !
Qủa là một cảnh tượng tiêu dao tự tại vô cùng thanh tịnh của những bậc
tu hành. Ít nhất phải có 3 nhân vật trong bài thơ : Nhà sư phải đánh cờ
với một người nào đó nữa, một nhà sư khác hay một cư sĩ nào đó, chả lẽ
đánh cờ một mình, và một người thứ ba nào ở gần đó mới nghe được tiếng
con cờ đặt xuống bàn cờ ! Tuy ít nhất phải có đến 3 người, nhưng không
gian lại hoàn toàn tĩnh lặng, tĩnh lặng trong bóng tre râm mát, tĩnh
lặng đến đỗi nghe được tiếng con cờ đặt xuống bàn cờ. Không không sắc
sắc, tựa sắc nhưng không, tựa không mà sắc ! Nếu như không thỉnh thoảng
nghe được tiếng quân cờ, thì như không có ai đang đánh cờ ở đó cả !
DIỄN NÔM :
Bàn cờ sư ngồi đó,
Bóng tre râm mát bờ.
Rừng trúc không người thấy,
Thỉnh thoảng tiếng quân cờ !
Lục bát :
Bàn cờ trước mặt sư ngồi,
Bóng tre râm mát im hơi ven bờ.
Rừng tre lặng ngắt như tờ,
Họa hoằn điểm nước quân cờ nhẹ đưa !
Thơ rất hay
Trả lờiXóa