Thứ Ba, 8 tháng 5, 2018

HOA TRONG MÓN ĂN NGƯỜI VIỆT

Nhiều dân tộc có các món ăn chế biến từ các loài hoa như: người Nhật ăn hoa cúc đồng, người Pháp nấu thức ăn với choux-fleur, artichaut , người Hy Lạp dùng bông bí để chiên, dân Nam Mỹ có hoa của cây yucca dùng làm salad , xào. Ở Việt Nam, có nhiều món ăn được chế biến từ các loại hoa như: bông bí, hoa chuối, bông điên điển, bông lục bình, bông hẹ, hoa hiên, bông lẻ bạn, bông mướp, bông sầu đâu, bông so đũa, bông sen, bông súng và hoa thiên lý.
1. Bông bí.
ông bí dùng để ăn là bông bí đực của cây bí rợ, không thể đậu trái. Bông bí lớn, màu vàng tươi rất vui mắt. Bông bí được cắt chừa cuống dài, bó thành bó nhỏ đem ra chợ bán, nhưng không có nhiều, chỉ có theo mùa.
Thông thường bông bí đem về được rửa sạch, sau đó luộc chấm nước kho cá, kho thịt hay chấm nước tương dầm ớt. Bông bí luộc có vị ngọt, hơi nhân nhẫn, phần tiếp giáp giữa cuống và bông hơi dai dai, ăn rất ngon. Bông bí còn dùng để nấu canh, xào tỏi, xào thịt bò, xào nghêu … Xào bông bí phải canh cho vừa chín mới còn dòn. Món đặc sắc nhất của bông bí là “bông bí dồn thịt chiên“ hay còn gọi là chả bông bí.
Bông bí vừa chớm nở phải hái xuống ngay, tướt xơ ở cuống, bỏ tâm, rửa sạch, để ráo. Tôm, mực, thịt nạc vai heo quết nhuyễn, trộn tiêu hành, mắm muối, bột năng. Bẻ gập các cánh hoa úp đè lên nhau, nhẹ tay bỏ vào chiên với lửa nhỏ để bông bí còn màu vàng tươi, không bị cháy xém. Chả bông bí beo béo, thơm thơm, chấm nước tương dầm ớt. Món ăn này thường được làm trong những ngày giỗ, tết của gia đình hay tụ họp, đãi đằng. Chả bông bí không những phổ biến ở miệt vườn lục tỉnh nam bộ mà còn nổi tiếng ở Huế nữa.
2. Hoa chuối:




Người miền Bắc gọi là hoa chuối, người miền Nam lại gọi là bắp chuối. Thường buồng chuối trổ đủ nải rồi, người ta cắt bớt đi các bắp chuối. Bắp chuối có màu tím, ngon nhất là bắp chuối hột. Bắp chuối được chế biến thành nhiều món ăn như: trộn gỏi, nấu canh, ăn ghém và chiên làm đồ chay…
- Gỏi bắp chuối (nộm hoa chuối): Bắp chuối lột bỏ phần bẹ già, còn phần non xắt mỏng, ngâm nước pha chanh hay dấm cho khỏi đen và ra bớt nhựa, vớt ra, để ráo.Trộn chung với tôm thẻ, thịt heo luộc, hến, gà luộc xé phay hay vịt luộc chặt miếng… rồi rau răm, củ hành tây xắt mỏng, đậu phọng rang giã nhỏ, nước mắm pha đường, chanh, tỏi, ớt.
- Canh chua bắp chuối: Bắp chuối phần non thái mỏng, nấu canh chua me dầm với tôm, cá, lươn…
- Bắp chuối bào trộn với các thứ rau sống khác, rau muống chẻ để ăn chung với các món nước như: bún riêu, bún bò, lẩu các loại…

- Phần trắng giữa bẹ bắp chuối được dùng thế mì căn làm món chay như gà xào xả ớt, tôm lăn bột chiên.
https://youtu.be/-KQvANO8whM
3. Bông điên điển:


Còn được gọi là “hoa mùa lũ” hay “hoa cứu đói”. Do mỗi năm, khoảng một tháng sau khi nước lên theo mùa, ở vùng châu thổ sông Cửu Long, bông điên điển trổ đầy cành những cánh hoa vàng rực rỡ, trên những cánh đồng ngút ngàn. Trong những ngày không làm việc được để kiếm tiền, người nông dân chống xuồng ba lá đi hái bông điên điển tươi bán đổi gạo, làm dưa, hay nấu cháo với bông, luộc bông ăn cầm cự đói.
Bông điên điển nhặt, rửa sạch, ngâm với giá sống trong nước muối có độ mặn vừa phải, chừng 3 ngày thì chua, thành dưa điên điển, dùng chấm nước kho cá, kho thịt, nấu canh với cá rô. Mùa nước nổi là mùa tôm cá sinh sôi đầy đặc dưới nước. Người ta giăng lưới, câu, xúc, kéo vó quanh nhà chừng nửa giờ là có cá rô con, rô mề cỡ mấy ngón tay. Canh dưa điên điển cá rô chẳng cần nêm, nếm gì thêm cũng đủ vị mặn, chua hấp dẫn.
Bông điên điển dùng làm rau sống nhúng lẩu cá, lẩu mắm, xào tép, thay giá làm nhân đổ bánh xèo với thịt heo, ăn với các loại rau, đọt trong vườn, chấm nước mắm pha tỏi ớt; bông điên điển làm mắm chay hoặc nấu canh chua rất ngon. Mùa điên điển ra bông cũng là mùa cá linh từ Biển Hồ trôi giạt xuống vùng sông Tiền, sông Hậu. Cá linh nấu với me sống vừa chua, làm lẩu, nhúng chỉ duy nhất bông điên điển vào. Bông điên điển còn có thể được nấu canh chua với cá bông lau, đậu bắp.
4. Bông lục bình:
Còn có tên là sen nhật, bèo tây. Lục bình là thân cây cỏ, sống nổi trên mặt nước, có cuống phồng lên thành phao nổi. Lá có gân, hình cung. Hoa mọc thành chùm ở ngọn. Hoa không đều, có màu tím xanh, đài hoa và tràng hoa cùng màu, dính liền nhau ở gốc. Cánh hoa trên có đốm vàng, 6 nhụy (3 dài, 3 ngắn). Người ta dùng bông lục bình làm gỏi, chấm nước cá kho.
5. Bông lẻ bạn:


Cây lẻ bạn có nguồn gốc từ các nước Trung Mỹ, được trồng rộng rãi ở Việt Nam. Cây trồng trong chậu làm cây cảnh, trồng ngoài vườn để làm thuốc. Cây có thân rất ngắn, lá mọc gần như sát đất. Lá không cứng, có bẹ, đầu thuôn dài, mặt trên màu xanh lục, mặt dưới màu đỏ tím.
Cụm hoa nhỏ, mọc ở nách lá, ngoài có hai mo úp vào nhau, giống như vỏ con sò, nên còn được gọi là bông sò huyết (oyster plant). Hoa màu trắng, dùng làm thuốc trị ho, hay nấu canh với xương heo ăn cho mát, bồi bổ cơ thể suy nhược.
6. Bông hẹ:

Cây hẹ đây là hẹ trồng, chứ không phải hẹ nước để ăn mắm kho. Bông hẹ tiếng Tàu gọi là Cửu thái, tiếng Anh là Chives. Bông hẹ màu trắng. Nấu canh với đậu hủ tươi ăn giải nhiệt . Xào với lòng gà (tim, gan, mề), nghệ ăn để trị ho.
7. Bông mướp:
  Cây mướp dễ trồng, thuộc họ dây leo, chưa phủ kín giàn đã ra hoa. Người ta thường có câu: ”Nụ cà, hoa mướp“. Hoa mướp màu vàng rực, nụ hoa tròn và đen. Không bằng bông bí, nhưng hoa mướp cũng được dùng luộc, xào lòng gà, ngon nhất là hoa mướp hương, ăn bùi và béo.
8. Bông kim châm:

Tiếng Tàu gọi là kim châm hay hoàng hoa. Tiếng Việt gọi là hoa hiên. Cây thường mọc hoang. Cuống hoa dài từ 80- 100 cm, đầu cuống chẻ làm hai, có từ 6-12 hoa. Hoa màu vàng, phơi khô thành màu nâu. Người ta thường dùng hoa kim châm khô với nấm mèo để nấu canh, hầm thuốc bắc, tiềm vịt, gà… Hoa kim châm có vị ngọt, tính mát, được dùng làm thuốc lợi tiểu, giảm đau, chữa chảy máu cam. Ngày nay cây được trồng nhiều ở vùng cao nguyên Trung phần Việt Nam.
9. Bông súng:
Cây súng có lá tròn giống lá sen, phía trên màu xanh lục, phía dưới màu hồng nhạt, nổi trên mặt nước. Có hai loại bông súng: Súng sen được trồng ở đầm chùa, ao làng có bông màu tím đỏ, rất to. Súng dại có cuống lá nhỏ, bông màu trắng hay tím. Bông súng có nhiều lá noãn gắn với nhau thành một bầu nhiều ô. Bông có 4 lá đài, 20-30 cánh hoa, 30-50 nhụy. Nhụy bông súng màu vàng. Thật ra, người ta chỉ xài phần thân, cọng súng màu nâu, nhưng vẫn gọi đó là bông súng.
Bông súng muốn ăn phải tướt vỏ, xắt khúc, ngâm nước cho sạch. Bông súng dùng trộn gỏi; ăn sống với mắm kho; nấu canh chua với cá đồng; bóp muối cho héo, ngâm giấm làm dưa.
10. Bông sen:


Trong địa hạt Đông y , mỗi bộ phận của cây sen có tính trị liệu khác nhau:
- Gương sen (liên phòng) , lá sen (hà diệp), vỏ ngoài hột sen: tánh mát, trị tiêu chảy, cầm máu.
- Hột sen (liên nhục):vị thuốc bổ tì, bổ thận.
- Nhụy sen (liên tu): thông thận, cầm máu,giữ tinh (liên tu bất tận).
- Tim sen (liên tử tâm/lõi xanh trong hột sen): an thần, trị huyết áp cao.
- Ngó sen (liên ngẫu): thanh nhiệt, dùng sống giải rượu, nấu chín giải độc trong thức ăn đồ biển.
- Củ sen: chữa bệnh mất ngủ, hoạt tinh.
Trong phạm vi ẩm thực, các phần của cây sen được xử dụng như:
Gương sen phơi khô đem đun thay củi; Lá sen gói cơm, xôi, quà bánh giữ được hương vị rất lâu; Lá sen non nấu cháo trị chứng giữ nước, phù thủng … Hạt sen tươi hay khô được xỏ xâu dùng nấu chè , làm bánh, làm mứt, tiềm vịt, tiềm gà,… Ngó sen làm gỏi. Củ sen làm mứt, luộc, chiên bột, hầm canh… cho đến trà ướp hương sen. Hoa sen vị ngọt, hơi đắng, không độc, có tánh ấm, giúp an thần, trị xuất huyết.
Có một món ăn nấu từ hoa sen của nhà văn Tản Đà, đã trở thành giai thoại: Vịt hấp hoa sen. Ông cho rằng tinh túy của sen đọng lại ở hoa, nên dùng cánh hoa sen phủ kín vịt để hấp cách thủy. Vịt ở đây là vịt tơ vừa, được làm sạch bằng rượu, khử mùi bằng gừng, ướp gia vị cho thấm trước. Khi vịt chín, bao nhiêu hương hoa ngấm hết vào thịt. Ăn cả thịt vịt mềm, không bị béo ngậy cùng hoa thơm, ngọt. Đến hết vẫn còn “vương vấn“ hương vị, cứ như là: "Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng“ (Nguyễn Du)
Còn theo ý thơ của Mạnh Giao:
"Thiếp tâm ngẫu trung tị , tuy đoạn do khiên liên"
(Lòng thiếp tơ trong ngó sen, dù đứt còn vương hoa).
11. Bông sầu đâu:
Sầu đâu
Tên gọi sầu đâu dễ bị lầm lẫn với tên gọi là thầu đâu, là sầu đông của cây xoan ta. Cây sầu đâu có nhiều ở vùng Thất sơn, An Giang, Châu Đốc, những tỉnh giáp giới Campuchia. Cây sầu đâu thân gỗ, cao to,vỏ sần sùi ,chứ không trơn láng như thân cây xoan ta.
https://youtu.be/WPnwahgJFJg

Xoan ta

(thầu đâu, sầu đông)

Lá xoan ta độc, không ăn được, còn lá non và bông sầu đâu thì ăn được. Lá sầu đâu dùng làm thuốc sốt rét.
Bông sầu đâu ra hoa vào mùa xuân, màu trắng, mọc thành từng chùm như hoa nhãn, dùng làm gỏi. Gỏi sầu đâu tương đối dễ làm: Rửa sạch bông và lá non, có thể trụng sơ qua nước sôi. Nướng khô cá sặc rằn, khô cá lóc, xé nhỏ, bỏ vào. (Nếu không có khô thì có thể thế bằng cá lóc nướng trui xé nhỏ). Trộn thêm rau thơm, hành tây xắt mỏng, xoài băm sợi… Ăn với nước mắm me, đường, ớt. Gỏi sầu đâu có vị đắng nhưng hậu ngọt dai.
12. Bông so đũa:

Cây so đũa hoặc mọc hoang, hoặc được trồng nhiều ở các vùng bờ quanh ruộng của đồng bằng sông Cửu Long. Cây so đũa thon cao, thẳng, vỏ nham nhám, xù xì, nứt nẻ. Trái so đũa nhỏ dài , hình dáng như chiếc đũa. Thân cây so đũa dùng làm cột nhà, cấy nấm mèo. Lá là món hảo của dê. Bông so đũa mọc ở trên cao, kết thành từng chùm , có 2 màu: trắng và tím. Bông so đũa có vị nhân nhẫn đắng, nhưng ngọt hậu.
Đầu tháng 10 âm lịch trở đi , cây so đũa đồng loạt ra hoa, cùng lúc với mùa cá linh để có món ăn nức tiếng là cá linh nấu canh chua bông so đũa. (Cá linh thường được dùng làm mắm để dành. Chế biến nhiều món như kho mặn, kho mẳn lót mía, kho mắm với cà tím, kẹp vỉ nướng, chiên giòn, nấu canh chua … ).

Bông so đũa nhặt cuống, rửa sạch. Nấu nước sôi,dầm me, thả cá linh, nêm vừa miệng, hớt bọt, cho bông so đũa vào là nhấc xuống liền , để bông còn giòn mới ngon. Trên mặt bỏ ngò gai, rau om xắt nhỏ, thêm một chút tỏi phi, vài lát ớt tươi. Không có cá linh, người ta nấu canh chua so đũa với tôm, tép. Bông so đũa còn dùng luộc, xào, đặc biệt là món cá lóc bọc bằng bông so đũa hấp, chấm nước mắm đồng dầm ớt.
13. Hoa thiên lý:
Cây thiên lý là một loại dây leo, dài hàng mét, thân non có lông, lá mọc đối. Hoa mọc thành chùm màu vàng chanh hay trắng ngà. Ban đêm hoa tỏa hương thơm ngát, nên còn được gọi là Dạ lai hương.
Lá và hoa thiên lý được thu hái vào mùa hè, dùng tươi. Rễ thu hái vào mùa thu, phơi hay sấy khô. Lá có tác dụng chửa bịnh trĩ, trị giun kim. Rễ chửa tiểu buốt hay ra máu. Hoa thiên lý giống như cái chuông gió nhỏ, lấp ló trong những tán lá xanh mướt. Ngoài chức năng làm đẹp.
Cộng mùi hương thoang thoảng, hoa thiên lý còn có vị ngon ngọt, tánh mát, được người nông dân miền Bắc coi như một loại rau có sẵn trong nhà.
Canh thiên lý mang hương vị đặc trưng của mùa hè. Nấu canh thiên lý không phức tạp. Chọn những chùm hoa mới nở, ngâm nước cho hết kiến, chùm hoa to thì tách làm 2, 3 nhánh nhỏ.
Ở thành phố thì nấu hoa thiên lý với thịt heo bằm, giò sống. Nhưng kết hợp độc đáo của hoa thiên lý là cua đồng giã nhỏ là canh có hương vị đậm đà ngay. Hoa thiên lý xào với thịt bò, có ướp chút gừng và nước tương cho thấm. Ngày nay, người ta dùng hoa thiên lý như một loại rau sống, nhúng với lẩu các loại.
14. Hoa Atiso:
Hoa atisô có tác dụng bổ dưỡng, kích thích tiêu hóa, lợi gan mật, trợ tim, lợi tiểu, thường dùng nấu canh. Khi nấu chú ý không dùng nồi gang hoặc nồi nhôm vì hoa sẽ bị đắng, khó ăn.
Bộ phận của cây atisô được dùng làm rau ăn là cụm hoa bao gồm đế mang hoa, các lông tơ, và các lá bắc (có phần gốc mềm mầu trắng bao chung quanh).
Trong 100g bông atisô, có chứa: 3 - 3,15 g protein, 0,1-0,3 g lipid, 11-15 g glucid (chủ yếu là inulase, tốt cho người bị tiểu đường) và 82 g nước.
Ngoài ra còn có chứa các chất khoáng như mangan, phospho, sắt, các vitamin: A , B1, B2, C, cung cấp 50-75 calori. Bông atisô khi nấu chín có tác dụng bổ dưỡng tăng lực, kích thích tiêu hóa làm ngon miệng, lợi gan mật, trợ tim, lợi tiểu, chống độc, tăng tiết sữa cho sản phụ (khi hầm với chân giò).
Trong đông y, hoa atisô dùng trong các trường hợp đau gan, đau dạ dày, ăn uống không tiêu, sản phụ ít sữa, tiểu đường thống phong, thấp khớp, suy nhược cơ thể...
Chế biến: Rửa sạch bông, chẻ dọc thành 6-8 miếng, luộc chín, nấu canh, hầm xương heo xương bò, chân giò hoặc xào với nấm. Khi dùng bông atisô chỉ nên dự trữ bằng cách bỏ vào tủ lạnh tối đa bảy ngày, khi nấu không dùng nồi bằng nhôm hay gang vì các kim loại này làm atisô mất màu, gây đắng khó ăn.

Hoa trong món ăn Việt.
vài thứ hoa trên bàn ăn người Việt, từ món Vua ngự cao sang ở cung đình, đến mâm cơm dân dã thơm mùi gạo mới.

Đầu tiên là hoa Thiên lý: Xuân - Hè ba miền đều có. Hoa Thiên lý dùng nấu canh, là món ăn dân dã mà sang trọng. “Thương chồng nấu cháo le le/ Nấu canh Thiên lý, nấu chè hạt sen”, nghĩa là hoa Thiên lý nằm trong các món bổ, tráng dương.

Hoa Thiên lý còn dùng xào với thịt bò, làm rau sống nhúng lẩu. Hoa Thiên lý phải hái lúc sáng sớm, màu hoa còn xanh mướt, lúc đó vị hoa sẽ ngọt hơn. Canh Thiên lý chỉ nấu một nhúm hoa thôi, hương đã tỏa thơm ngát, đã khiến người thưởng thức hứng khởi lạ thường. Thịt heo nạc băm nhỏ, hay tôm tươi lột nõn, điểm thêm ít măng vòi, bắp non, rau tập tàng, nêm tiêu, hành, mắm ruốc cho vừa ăn, xào thịt hay tôm xong mới bỏ hoa Thiên lý vào.


Trong sách Thực phổ bách thiên (100 món ăn phổ cập) viết bằng thơ tứ tuyệt, bà Trương Đặng Thị Bích, cháu dâu Vua Minh Mạng, có bài thơ Canh hoa Lý nấu chay:
“Bắp non nấu với các rau mùi
Huê Lý măng giang bỏ lạ màu
Nấm mối thay tôm vừa đủ ngọt
Muối rang thế ruốc kém gì nhau”...
Nghĩa là canh hoa Lý nấu chay thì thay thịt, tôm bằng nấm mối, đậu phụ và muối rang vẫn đậm đà hương vị.
Ăn canh chay hoa Thiên lý có hương vị thơm hơn canh mặn vì có thêm nguyên liệu nấm mối.
Hoa bí cũng là loài hoa được dùng nhiều trong ẩm thực Việt. Các món hoa bí có: hoa bí luộc, hoa bí xào với thịt bò, hoa bí xào tỏi, chả hoa bí.
Thi sĩ Tản Đà trong một lần ngao du phương Nam đã dừng ở Huế để thưởng thức món hoa bí Cửa Thuận: “Hữu tình rau bí ông quyền Thuận An” (Thú ăn chơi). Nhưng món hấp dẫn nhất mà người đầu bếp Huế hay làm là chả hoa bí. Sách Thực phổ bách thiên dạy rằng: “Bông hoa chớm nở hái nay vừa/ Tước cạnh, xoi tim, cuống phải chừa/ Tôm quết gia màu nhồi nhận lại/ Chiên lần nhúng trứng lửa bưa bưa”.

Chả hoa bí còn có thể nhồi bằng thịt băm chiên. Muốn làm chả hoa bí chay thì thay nhân tôm, thịt bằng nhân nấm, đậu. Ngày Tết, người Huế hay người Nam bộ thích chế biến món chả hoa bí, ăn ngon như tiếng reo ca đón Xuân về. Bắp chuối (hoa chuối) là thứ hoa góp mặt trong nhiều món ăn của người Việt.

Ở Huế, bắp chuối là “cái đinh” của đĩa rau sống khi ăn bún bò giò heo hay bánh khoái Thượng Tứ... Ngoài làm rau sống, bắp chuối còn được chế biến thành hàng chục món mặn, món chay rất ngon như nộm bắp chuối, bắp chuối muối chua, bắp chuối kho, bắp chuối ram, cháo bắp chuối, canh bắp chuối sứ...

Bà Hoàng Thị Kim Cúc, giáo viên dạy nữ công gia chánh của Trường Đồng Khánh xưa, người đã cho Thi sĩ Hàn Mặc Tử bài thơ trứ danh Đây thôn Vỹ Dạ, từng dạy nấu món bắp chuối ram trong tiệc chay rất nổi tiếng ở xứ Huế: “Bắp chuối chẻ đôi theo chiều dọc, luộc mềm, ép ráo nước. Tương, xì dầu, tiêu, muối, đường, bột ngọt, ngũ vị hương trộn đều rồi đem xoa vào từng lá bắp chuối cho thấm. Khi rán, lấy bột mì hòa nước lạnh cho sền sệt, trộn thêm các gia vị nói trên. Phết hồ bột mì lên lá bắp chuối, cho lên chảo dầu đang nóng ram vàng đều. Khi ăn, cắt thành miếng nhỏ, trộn xì dầu, tương, đường, gừng lên trên là được”.

Hoa sứ có rất nhiều ở chùa vào tiết Xuân, cũng là thứ hoa mà Thi sĩ Tản Đà đã dùng để chế biến món gỏi hoa sứ độc đáo. Hái hoa tươi về chần nước sôi thật nhanh, xong rửa lại, lấy ngón tay xoa cho sạch phấn, ép nhẹ cho hoa khô nước. Bì heo luộc chín, thái sợi. Gia vị là tỏi, đường, mắm, ớt, chanh, lạc, vừng rang vàng, giã nhỏ.

Tất cả trộn đều với hoa sứ. Hành thái mỏng, phi thật vàng rộm, rắc lên trên là được. Gỏi hoa sứ có hương thơm, vị béo, thanh khiết.


Hoa điên điển vàng có nhiều ở miền Tây Nam bộ vào mùa nước nổi. Hoa điên điển chế biến được nhiều món ngon. Ngon nhất là canh cá linh bông điên điển:

“Canh chua điên điển cá linh.
Ăn chỉ một mình thì chẳng biết ngon”.
Bông điên điển rửa sạch, ngâm trong nước muối có độ mặn vừa phải, chừng ba ngày thì chua, thành dưa điên điển, dùng để nấu canh chua cá linh, cá bông lau, cá rô... Bông điên điển dùng làm rau sống nhúng lẩu cá, lẩu mắm, xào tép, thay giá làm nhân, đổ bánh xèo với thịt heo, ăn với các loại rau, đọt trong vườn, chấm nước mắm tỏi ớt... đều là những món ngon dân dã gợi nhớ sự hào phóng của đất trời miền Tây.



Người dân Nam bộ còn góp thêm hoa súng cho món ngon đất Việt. Nhất là cọng hoa súng tướt vỏ, xắt khúc, ngâm nước cho sạch, dùng nhúng lẩu rất giòn. Cọng hoa súng còn dùng trộn gỏi; ăn sống với mắm kho; nấu canh chua với cá đồng; bóp muối cho héo, ngâm giấm làm dưa...

Hoa sen là loài hoa quen thuộc với người Việt ba miền. Sen là cây thuốc quý. Ở nhà hàng Ý Thảo, Huế có một “Thực đơn sen” rất ăn khách: gỏi ngó sen, súp hạt sen, hạt sen tiềm, củ sen hầm, cơm sen, chè sen (tráng miệng). Hoàng Thị Như Huy, thành viên danh dự của Viện Hàn lâm Ẩm thực Pháp, còn giới thiệu món vịt hấp bông sen, tương truyền là của cố Thi sĩ Tản Đà: mổ vịt, dùng rượu trắng và gừng làm sạch bên trong, muối tiêu, ngũ vị hương ướp vịt cho thấm; hoa sen lựa cánh non, xếp cánh hoa phủ kín con vịt. Nước sôi thì đặt vỉ vào hấp. Độ một giờ thì vịt ngấm hương hoa, lấy vịt ra chặt thành từng miếng. Khi đơm, lót một lớp cánh hoa sen vào đĩa rồi xếp thịt vịt hấp bông sen lên trên. Thịt vịt hấp sẽ quyện hương sen rất đài các mà tinh thơm.



Ngoài ra, trên mâm tiệc của người Việt có nhiều món chế biến từ các loài hoa khác như: hoa lục bình (bèo tây) làm gỏi, chấm nước cá kho; hoa hẹ nấu canh với đậu hũ, xào với lòng gà; hoa kim châm (hoa hiên) khô dùng với nấm mèo để nấu canh, hầm thuốc bắc hay các món tiềm bồ câu, vịt, gà...; hoa so đũa nấu canh chua với tôm, tép.
Hoa so đũa còn dùng luộc, xào, đặc biệt là món cá lóc bọc hoa so đũa hấp... Rồi hoa mướp, hoa sầu đâu, cả hoa atisô ở Đà Lạt cũng là những loại hoa tham gia vào món ăn trên bàn tiệc, như ngàn sắc của thiên nhiên gửi gắm nỗi nhớ thương, yêu mến cho những người con đất Việt xa

1 nhận xét:

HOÀNG HẬU CÀ PHÊ HỦ TIẾU.

BÀ LÊ THỊ NGỌC ĐƯỢC MỆNH DANH HOÀNG HẬU CÀ PHÊ HỦ TIẾU.   Đó là tựa của một bài báo trên tờ tuần san Phụ nữ Tân Văn số 219 ra ngày 5 tháng ...