Kim
Dung cùng với Cổ Long và Lương Vũ Sinh, được gọi là “Võ hiệp tam đại
gia”. Ông đã góp công lớn đưa thể loại văn chương võ hiệp từ tiểu
thuyết dân dã bước lên lâu đài của nền văn học Trung Hoa hiện đại, trở
thành nhà văn lớn ngang danh Ba Kim, Băng Tâm. Ngoài sự nghiệp văn
chương, ít ai biết ông còn có một cuộc tình lãng mạn…
Người đưa tiểu thuyết võ hiệp vào sách giáo khoa
Kim Dung tên
thật là Tra Lương Dung. Bút danh đó là do tên ông chiết từ thành 2 chữ
mà ra. Ông sinh năm 1924, trong danh môn vọng tộc ở huyện Hải Ninh, tỉnh
Chiết Giang (Trung Quốc). Từ năm 1948, ông
định cư và xây dựng sự nghiệp ở Hong Kong.
Ông không viết nhiều như các đồng nghiệp khác. Năm 1955, ông viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Thư kiếm ân cừu lục, đến năm 1972 viết cuốn Lộc đỉnh ký, rồi gác bút ở tuổi 48. Ông đã lấy 14
chữ đầu tên các cuốn sách của mình đặt thành câu đối như sau:
Phi tuyết liên thiên xạ bạch lộc;
Tiếu thư thần hiệp ỷ bích uyên.
|
Câu đối trên
được khắc sau tượng Kim Dung, dựng trên đảo Đào Hoa, tỉnh Chiết Giang
(quê hương “Đông tà” Hoàng Dược Sư trong pho truyện Anh hùng xạ điêu). 14 tác phẩm trên cộng thêm cuốn Việt
nữ kiếm, như vậy tổng số tác phẩm Kim Dung là 15 cuốn.
Trích đoạn Tuyết sơn Phi Hồ đã được chọn trong sách giáo khoa ngữ văn trung học phổ thông ở Trung Quốc.
Ngoài
tiểu thuyết võ hiệp, Kim Dung còn viết nhiều bài thể loại phóng sự,
bình luận, khảo cứu. Ông còn là một học giả uyên thâm, được phong nhiều
học vị danh dự. Mặc dù đã được cấp bằng
tiến sĩ văn học danh dự nhờ cuốn Lộc đỉnh ký, nhưng ông không thỏa mãn.
Năm
2005, ông lập kỷ lục Guinness đậu bằng tiến sĩ lịch sử thực thụ Trường
Đại học Cambridge (Anh) ở tuổi 81 với luận văn “Bàn về chế độ kế thừa
ngai vàng thời thịnh Đường”. Năm 1959, ông
sáng lập và làm chủ bút tờ Minh Báo, về sau phát triển thành Tập đoàn Minh Báo lên
sàn chứng khoán, do ông làm chủ tịch HĐQT. Trong làng văn chương Hoa
ngữ, viết văn mà trở thành tỷ phú, có lẽ chỉ có Kim Dung!
“Giấc mộng đêm hè” của đại hiệp Kim Dung
Người
đời thường nói: “Đắc ý trên thương trường, thất bại trên tình trường”.
Kim đại hiệp ngang dọc giang hồ, nhưng tình yêu vẫn khó trọn vẹn.
Năm
1957, Kim Dung xin vào làm biên kịch cho hãng phim Trường Thành. Lúc đó
ông mới 33 tuổi nhưng đã có tên trong danh sách “bốn tài tử Hương
Cảng”, danh tiếng nổi như cồn, sao lại chịu
khuất mình làm một nhân viên biên kịch? Lý do rất đơn giản: Trường
Thành có ngôi sao sáng rực bầu trời – Hạ Mộng.
Hạ
Mộng (nghĩa đen: “Giấc mộng đêm hè” , tên một vở hài kịch nổi tiếng của
đại văn hào Shakespeare) tên thật là Dương Mông, sinh năm 1934, người
Tô
Châu, tỉnh Giang Tô, từ nhỏ sống ở Thượng Hải, năm 1947 định cư ở Hong
Kong. Năm 15 tuổi, cô đóng vai chính trong vở kịch tiếng Anh Joan of Arc,
được đánh giá “không những người đẹp, còn diễn xuất có hồn” và nổi danh
từ đó. Cô cao 1,7m, rất hiếm vào
thời điểm giữa thế kỷ trước, cộng thêm tố chất văn hóa, nên năm 1953,
sau khi tham gia đội ngũ của hãng phim Trường Thành, cô nhanh chóng trở
thành diễn viên hàng đầu với biệt danh “công chúa Trường Thành”.
Tả
về vẻ đẹp của Hạ Mộng, Kim Dung từng viết: “Sắc đẹp Hạ Mộng trong đời
thường đã làm tôi lóa mắt; Hạ Mộng trên màn ảnh còn đẹp hơn, nhìn thấy
cô tim tôi đã loạn nhịp, hồn phách cũng bị
cô hớp mất”.
å
Ông
cũng từng viết: “Tây Thi đẹp như thế nào, chưa ai thấy, chắc chỉ cỡ Hạ
Mộng là cùng!”. Để có cơ hội tiếp cận người tình trong mơ, Kim Dung đã
chọn con đường gia nhập Trường Thành.
Về già, ông hồi tưởng lại, đúng như trong truyện dân gian Đường Bá Hổ điểm Thu Hương. Đường Bá Hổ là danh sĩ đời Minh, để tiếp cận người đẹp Thu Hương, ông đã đóng vai người hầu,
nhưng khác với Kim Dung, Đường Bá Hổ được toại nguyện.
Để
mắt xanh người đẹp để ý tới, ông đã làm việc không mệt mỏi. Chỉ trong
vòng 3 năm, ông đã lấy bút danh Lâm Hoan dựng 6 kịch bản: Giai nhân tuyệt
thế, Đừng rời xa em, Tiếng đờn lúc nửa đêm… Ông còn học làm đạo diễn, từng hợp tác với bạn, đạo diễn thành công hai bộ phim Ấp ủ tình xuân, Cướp dâu.
Các phim trên đều do Hạ Mộng đóng vai chính,
hai người cộng tác rất thành công, nên ông có nhiều cơ hội tiếp cận
người đẹp. Ông bày tỏ tình cảm bằng lời nói bóng gió và liếc mắt đưa
tình. Cô cũng cảm mến tài đức của ông, nên đã đáp
trả bằng “trên mức tình bạn, dưới mức tình yêu”, càng khiến ông thần
hồn điên đảo, nhưng không thể vượt qua giới hạn cho phép.
Hạ Mộng (bìa trái) và Kim Dung (bìa phải).
Tất
cả đều bắt nguồn từ việc “danh hoa đã có chủ”. Năm 1954, Hạ Mộng đã kết
hôn với Lâm Bảo Thành, một thương nhân mê điện ảnh. Ngôi sao màn bạc Á
Đông không sống phóng túng như ngôi sao
Hollywood, Hạ Mộng không thể phản bội chồng. Đối với vô số người đeo
đuổi, cô đều mặt lạnh như tiền, từ chối không thương tiếc, nhưng đối với
Kim Dung, cô dành cho sự tôn trọng và thân thiện đặc biệt.
Hạ
Mộng đã nhận lời hẹn gặp với Kim Dung một lần duy nhất tại một quán
cà-phê đêm. Ánh đèn mở ảo và tiếng nhạc du dương tạo ra một bầu không
khí thơ mộng, 2 người không ngừng nâng ly và
bốn mắt nhìn nhau. Kim Dung đã mạnh dạn dốc hết bầu tâm sự bấy lâu nay.
Nghe xong, cô rơi lệ và thỏ thẻ với ông rằng, cô rất kính trọng nhân
phẩm của ông, cũng rất tán thưởng tài hoa của ông, chỉ tiếc ông đã đến
chậm một bước, “Hận bất tương phùng vị giá thì”
(Thơ Lý Thương Ẩn: Chỉ tiếc không gặp nhau lúc thiếp chưa lấy chồng).
Cô đã xin ông tha thứ, kiếp này không toại nguyện xin hẹn kiếp sau!
Năm 1959, mang theo nỗi thương cảm không bờ bến, ông rời Trường Thành cùng nghề biên kịch và đạo diễn, ra sáng lập Minh Báo và chuyên tâm viết truyện võ hiệp.
Tuy
chém dứt tơ tình, nhưng hình ảnh Hạ Mộng vẫn dai dẳng bao trùm tâm trí
ông. Không lâu sau đó, Hạ Mộng đi du lịch châu Âu dài ngày, ông đã đăng
trên Minh Báo 10 số liền “Hạ Mộng
du ký”, chính đã thể hiện điều đó.
Hình ảnh Hạ Mộng cũng được tái hiện dưới ngòi bút Kim Dung, như nàng Tiểu Long Nữ trong trắng hồn nhiên (Thần điêu đại hiệp), Hoàng Dung thông minh sắc sảo (Anh hùng xạ điêu),
Vương Ngữ Yên đẹp như tiên nữ (Thiên long bát bộ)…
Nhà
văn nữ Đài Loàn đã quá cố Tam Mao từng viết: “Tiểu thuyết Kim Dung đặc
biệt ở chỗ, viết ra chữ tình có thể khiến con người lên thiên đàng,
xuống địa ngục, mà loài người đến nay vẫn chưa
hiểu thấu. Nếu không biết được đoạn tình giữa ông và Hạ Mộng, sẽ không
hiểu được hai chữ “tình duyên” trong tiểu thuyết của ông.
Sau
26 năm phấn đấu trên phim trường cũng như thương trường, cô đã để lại
42 bộ phim cũng như danh tiếng lẫy lừng trong giới điện ảnh tiếng Hoa.
Năm 1976, Hạ Mộng cáo biệt những người hâm
mộ Hong Kong, cùng gia đình đi định cư ở Canada.
Kim Dung không những đưa tin tường tận, còn phát biểu xã luận nhan đề “Giấc mộng mùa xuân của Hạ Mộng”. Lúc đó, Minh Báo đã là tờ báo lớn, vì sự ra đi của cô đào điện ảnh mà phát
biểu xã luận, là việc chưa từng có; chỉ có người trong cuộc mới hiểu được ngọn ngành “giấc mộng” của ông.
Nhìn
lại cuộc tình ngang trái diễn ra khi trai có vợ, gái có chồng (Kim Dung
kết hôn lần hai năm 1956), chỉ có thể là tình yêu kiểu Plato không
vướng bụi trần, để lại một giai thoại cho
văn đàn.
Những cuộc hôn nhân đầy sóng gió
Vợ
đầu tiên của Kim Dung là Đỗ Trị Phấn, một cô gái xinh đẹp người Hàng
Châu. Sau 1 năm yêu nhau, năm 1948, hai người đã kết hôn. Lúc đó cô mới
17 tuổi và sau đó đã cùng nhau sang Hong Kong.
Kim Dung mới khởi nghiệp, bận rộn tứ bề, không có thời gian chăm sóc cô
vợ kiêu kỳ.
Với
sắc đẹp trời cho, trong vòng vây của các “đại gia” trên đất phồn hoa đô
hội, cô đã không chống nổi cám dỗ. Tình cảm 2 người rạn nứt, năm 1953
cô đã bỏ về Đại Lục và làm thủ tục ly hôn,
không rõ kết cục cô ra sao.
Ảnh cưới Kim Dung và người vợ đầu tiên Đỗ Trị Phấn.
Ở
tuổi 74, khi hồi tưởng lại cuộc hôn nhân bất hạnh này, ông nói: “Mặc dù
tôi rất yêu cô ấy, nhưng cô ấy đã phản bội tôi, nên kết cục đó tôi
không hề hối tiếc”.
Năm
1956, Kim Dung lấy người vợ thứ 2 kém ông 11 tuổi, cô Châu Mai, tên
tiếng Anh là Lucy, một nữ phóng viên sắc sảo, giỏi giang, thạo tiếng
Anh, là cánh tay đắc lực khi Kim Dung mới sáng
lập Minh Báo.
Cô
từng bán hết nữ trang ủng hộ sự nghiệp của Kim Dung, đúng nghĩa người
vợ tào khang. Năm 1959, Lucy sinh con trai đầu lòng Tra Truyền Hiệp.
Kim Dung có cả thảy 4 người con, 2 trai 2 gái, đều là con cô Lucy.
Cuộc hôn nhân tưởng như mỹ mãn này cũng không được bền lâu, do có người thứ 3 xuất hiện.
Lucy vốn tính cứng rắn, cô giữ chức trưởng ban phóng sự Minh Báo, hay xích mích với các đồng nghiệp.
Trong một lần xô xát với tổng biên tập Wong, ông đã phẫn uất ra đi, kéo theo một số nhân viên đắc lực, khiến Minh Báo phải đình bản vài ngày.
Lucy không những không nhận lỗi, còn đổ hết trách nhiệm cho Kim Dung.
Trong cơn buồn bực, ông đã đến giải sầu tại một quán bar gần trụ sở Minh Báo. Ông đã uống đến say mềm, không về nhà nổi. Quán bar có 3 cô phục vụ, nhưng chỉ có cô Lâm Lạc Di, thường
gọi là A May, tận tình chăm sóc ông.
Sau
đó, ông hay đến quán bar thư giãn và trò chuyện cùng A May. Một lần bị
Lucy bắt gặp, cô đánh ghen vô cớ, khiến Kim Dung bị choáng váng, bệnh
tim tái phát phải đưa đi cấp cứu, người
trực bên giường bệnh vẫn là A May chứ chẳng phải ai khác.
Ông
đã đặt vấn đề yêu đương và xây tổ ấm chung sống với người tình bé bỏng
của mình, lúc đó A May mới 17 tuổi, còn ông đã ngoài 50.
Kim Dung và người vợ thứ hai Lucy.
Giọt
nước đã làm tràn ly, ông đặt vấn đề ly hôn. Lucy không hề níu kéo, mà
chỉ đề ra hai điều kiện khắt khe : Chia nửa gia tài và buộc A May phải
tuyệt sản, vì e rằng sau này con anh con tôi, sinh nhiều chuyện rắc
rối.
Với
điều kiện thứ 2 phi lý như vậy, không ngờ A May đã khảng khái chấp
nhận, nói theo lời của cô, là để tập trung chăm sóc cho các con của Kim
Dung, sau này cô quả đã làm tốt điều đó.
Không
thể kiểm chứng tính xác thực của thông tin này, nhưng A May ở tuổi xuân
thì, sống với ông hơn 30 năm nhưng không có con, nên người ta tin giao
kèo trên là có thật.
Kim Dung cùng phu nhân A May.
Năm
1976, con cả Kim Dung là Tra Truyền Hiệp mới 18 tuổi, đang du học ở
Trường Đại học Columbia Mỹ, sau khi yêu cầu bố mẹ ngừng quyết định
ly hôn không thành, đã nhảy từ lầu 21 xuống tự sát.
Khi
ly hôn, Lucy được chia một căn nhà lớn cùng 300.000 USD, lúc đó là con
số cực lớn, nhưng không hiểu vì tính hoang phí hay không thạo lý tài,
nên cô đã nhanh chóng lâm vào cảnh nợ nần
chồng chất, bị ngân hàng tịch biên nhà cửa.
Có người còn nhìn thấy cô đứng đường bán túi xách ở khu Trung Hoàn.
Năm 1996, cô chết vì bệnh lao phổi, một bệnh của người nghèo, ở tuổi 63.
Cô
chết trong cảnh cô đơn lạnh lẽo, chồng cũ và các con đều không ai có
mặt, giấy báo tử của bệnh viện cũng không biết phải báo cho ai.
Hình chụp mới nhất của vợ chồng Kim Dung.
Nhìn
lại cuộc hôn nhân này, ông từng nói: “Tôi nhập vai người chồng không
thành công, tôi mắc lỗi với cô ấy nhiều lắm, nếu được làm lại, tôi sẽ bù
đắp cho cô ấy nhiều hơn”. Không thấy ông
mảy may có chút hối tiếc về cuộc chia ly này.
Làm
sao có thể bỏ người vợ tần tảo, học thức, bản lãnh, cũng không kém phần
nhan sắc, đi yêu một cô bé “ăn chưa no, lo chưa tới”, trình độ
chưa hết phổ thông, các nhà “Kim Dung học” không giải thích nổi; có lẽ
chỉ có chính ông mới hiểu, nhưng trái tim có tiếng nói riêng của nó, dù
nhà văn lớn cũng đâu có thể diễn tả rành rọt được.
Có
người đến thăm ông lúc đó, mô tả lại thấy A May đang thổi bong bóng
cùng các con của Kim Dung, chẳng ra dáng “mẹ kế” chút nào, cũng chẳng
phách lối như một bà chủ lớn. Để “tân trang”
cho cô vợ bé nhỏ, ông đã cho cô sang Úc du học cùng lời hứa “nếu có mối
tình nào ưng ý, cô cứ việc bay nhảy”. Cô đã không phụ tình ông, đã cùng
ông đi suốt đường đời dưới bóng tịch dương cho đến ngày nay.
Đánh
giá về cuộc hôn nhân này, ông nói: “Cô ấy luôn luôn chiều chuộng và
nhường nhịn tôi. Đây không phải cuộc hôn nhân thất bại, cũng chẳng mấy
thành công, chỉ là cuộc hôn nhân bình thường”. Quan
niệm của ông về cuộc hôn nhân lý tưởng: “Tốt nhất là bị ngay tiếng sét
ái tình, rồi kết nghĩa vợ chồng đến lúc đầu bạc răng long, nhưng rất
tiếc, đối với tôi đó chỉ là điều mơ ước”.
Mr Hua Sưu tầm
(Hoa Huỳnh chuyển)
|
bài rất hấp dẫn
Trả lờiXóa