Hầu như nơi nào vùng
đất phương Nam cũng đều có những “võ sư”, những võ sĩ vô danh, chuyên
“thấy chuyện bất bằng chẳng tha”. Vùng Thất Sơn Bảy Núi ở An Giang đã có
bao nhiêu truyền thuyết về những tay cao thủ võ lâm, đượm màu huyền
thoại, không thua gì các Hảo Hán Trung Hoa, song được nhắc đến nhiều,
được thêu dệt vá ái mộ, lại chính là các võ sĩ xuất thân hoặc “hành
hiệp” tại Sài Gòn. Dân Sài Gòn từ bao đời vốn trọng đạo nghĩa, sống
phóng khoáng, nên rất thích nghề võ. Làng võ Sài Gòn là một phần làm
phong phú cho nền văn hóa, văn minh của Sài Gòn 300 năm lịch sử.
Võ Bình Định
Theo
truyền thuyết, khi anh em nhà Tây Sơn nổi lên chống nhà Nguyễn, nhất là
khi Nguyễn Lữ được phái vào Gia Định để trấn giữ vùng đất phía Nam, thì
môn võ lâu đời của Bình Định đã được mang theo. Trong dân gian từng lưu
truyền nhiều giai thoại về thú mê đá gà và các trò giải trí của vị “phó
vương” Nguyễn Lữ. Những trường gà nổi tiếng được mở ra khắp vùng Gia
Định, tạo nên phong trào sưu tầm và nuôi gà đá rất độc đáo ở Gia Định và
các tỉnh miền Tây.
Bên cạnh đó, phong
trào luyện võ Bình Định cũng bắt đầu lan rộng. Dân phương Nam, từ trước
đó rất mê luyện võ Thiếu Lâm (do các Hoa kiều chạy nạn Mãn Thanh mang
sang), nhưng từ khi được tiếp xúc với võ Bình Định thì lại chuyển hướng
sang tập luyện môn võ này. Tương truyền, đầu tiên võ Bình Định đã thâm
nhập giới tu sĩ, nổi bật nhất là các nhà sư vùng Cần Giuộc và Chợ Quán.
Những vị sư này võ nghệ rất cao cường, thường giúp dân chống lại ác thú
và đánh đuổi bọn cướp.
Theo một thống
kê không chính thức, trong số các phái võ ở vùng Sài Gòn – Gia Định từ
thế kỷ XVIII trở về sau, đa phần thuộc gốc Bình Định, số còn lại là
Thiếu Lâm, hoặc pha trộn giữa các phái để trở thành võ phái địa phương.
Sau này, giai đoạn 1930-1950, những “hảo Hán” xưng hùng ở Bình Xuyên, Bà
Điểm, Hóc Môn, Cần Giuộc, Cần Đước như: Ba Dương, Tám Mạnh, Cố Hoạch,
Bảy Bổn, Mười Trí… ít nhiều thừa hưởng chiêu thức võ công từ đất Tây
Sơn, do các võ sư gốc di dân như Ba Thi (Chợ Lớn), Sáu Lầu (Bình Khánh,
Nhà Bè), Bộ Dực (Bến Tre), Bảy Khuyên (Hóc Môn), Hai Ngàn (Tân Khánh, Bà
Trà), Tư Thêm (Vàm Láng), và Sáu Cường (Trà Vinh)… đã truyền cho họ.
Sau
khi Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Định, hầu như những gì của Tây Sơn đều bị
triệt tiêu. Nhưng có một thứ không thể mất, đó là võ Bình Định. Những
phái võ có xuất xứ từ đất võ Tây Sơn vẫn tồn tại ở Gia Định và các tỉnh
Nam kỳ. Võ Duy Dương, là võ quan triều Nguyễn, rất giỏi võ Bình Định,
khi theo Nguyễn Tri Phương vào trấn giữ Sài Gòn đã từng là cho binh sĩ
dưới quyền nể mặt bởi võ nghệ tuyệt luân của ông.
Khi
Pháp đánh chiếm Sài Gòn, phá vỡ đồn Kỳ Hòa, Võ Duy Dương rút về cố thủ ở
vùng Đồng Tháp Mười, chỉ mang 24 bộ tướng. Tương truyền, đây là 24
thuộc hạ võ nghệ cao cường nhất của ông. Tại cứ địa Đồng Tháp Mười, Võ
Duy Dương và 24 thuộc hạ tụ tập binh mã, rèn luyện võ thuật cho họ, trở
thành đội ngũ tinh nhuệ, thiện chiến, sau đó mở những trận tập kích, làm
cho quân Pháp phải kiêng nể. Về sau, Võ Duy Dương (được dân địa phương
gọi là Thiên Hộ Dương) chết, trong số đệ tử chân truyền của ông có một
số người bí mật rút về vùng Thất Sơn (An Giang), tạo ra những huyền
thoại võ lâm mới…
Tư giang hồ với chiêu cầm nã
Trong
số các nhân vật giang hồ hảo Hán của Sài Gòn hồi đầu thế kỷ XX có Tư
Mắt, một nhân vật nửa tướng cướp, nửa hảo Hán. Ông ta có “nghề võ” rất
cao cường, khi ra hành hiệp thì được dân anh chị Sài Gòn kiêng nể, tôn
là đại ca. Theo nhiều người kể lại, Tư Mắt giỏi võ Thiếu Lâm, do được
một võ sư môn phái Thái Cực Đường Lang của Thiếu Lâm Tự từ Trung Hoa
sang dạy cho. Nhưng một số giai thoại khác do những người từng sống
chung với Tư Mắt ở chùa Giác Lâm (lúc tay anh chị này hết thời về sống
nương nhờ cửa Phật tại đây) kể lại, thì võ công của Tư Mắt đích thị là
võ Việt Nam có pha trộn võ Thiếu Lâm. “Anh Tư” (tên giang hồ của Tư Mắt)
có vài chiêu thức cực kỳ lợi hại, trong đó, lạ lùng và nguy hiểm nhất
là chiêu cầm nã thủ: khi xuất chiêu nhanh như gió, chỉ thoáng một cái,
năm ngón tay đã chộp vào cổ họng của địch thủ, hạ gục trong nháy mắt!
Tư
Mắt đã làm trùm anh chị Sài Gòn và cả các tỉnh Nam kỳ một thời gian
dài, từng đụng với các võ sĩ người Pháp. Chúng xem thường người An Nam,
chẳng coi Tư Mắt ra gì. Có một giai thoại kể lại rằng, vào năm 1912, tên
Aman, một võ sĩ quyền Anh hạng lông rất nổi tiếng, nhân theo tàu buồm
Pháp ghé bến Sài Gòn. Lên bờ và mở võ đài ở câu lạc bộ hàng hải Pháp,
thách các võ sĩ bản xứ đấu với anh ta. Aman lớn lối tuyên bố là chấp mỗi
đêm 10 võ sĩ bất kể hạng cân của Sài Gòn lên võ đài. Ngay đêm đầu, chỉ
cần một mình Tư Mắt với một đòn duy nhất, tên võ sĩ kiêu căng nọ đã bị
đo ván.
Sáu Cường với cú đá song phi
Vào
những năm trước Chiến tranh Thế giới lần thứ II, ở Sài Gòn và vùng Nam
kỳ lục tỉnh nổi lên Sáu Cường, là võ sĩ vô địch. Ông người Trà Vinh, học
võ với “một ai đó” không tên tuổi. Lúc ra “giang hồ” Sáu Cường tròn 20
tuổi. Bấy giờ ở Sài Gòn và vùng lục tỉnh đã nổi lên phong trào “nghề võ”
rất ồn ào. Hầu hết các cao thủ đều là người Pháp, Miên (Campuchia),
Lào, Thái Lan. Họ thích làm mưa làm gió trên các võ đài, khiến cho phần
đông người bản xứ tức giận và cứ mong “ai đó” ra tay! Mà “người nào đó”
không ai khác ngoài Sáu Cường. Ông xuất hiện đầu tiên ở một trận đấu tại
thành phố Cần Thơ, do viên Chủ tịch tỉnh lúc đó tổ chức cho võ sĩ Pháp
gốc Ấn Độ (có bản lĩnh võ thuật rất lạ, phối hợp giữa quyền Anh và võ
Ấn). Anh chàng võ sĩ này đã từng đấu 10 trận ở khu vực Đông Nam Á, thắng
cả 10. Nhưng khi Sáu Cường thượng đài, thì đó là trận đầu tiên anh
chàng võ sĩ gốc Ấn này bị nằm dài, ngay trong hiệp 2, bởi cú đá song phi
của Sáu Cường.
Sau trận đó 3 tháng,
Sáu Cường lại được dịp thượng đài ở Sài Gòn, với một võ sĩ Xiêm (Thái
Lan) tên là Anthuong Chay. Đây là một võ sĩ từng thi đấu nhiều nước ở
châu Âu, thắng đến 30 trận, chưa biết nếm mùi thất bại. Anh ta đánh một
thứ võ gọi là Muong Thai, vừa đánh bằng tay, vừa sử dụng chân đá, rất
lợi hại. Kết quả: Sáu Cường lại thắng! Có thể nói, vào thời điểm đó, Sáu
Cường đã trở thành một huyền thoại của làng võ Nam kỳ lục tỉnh. Sáu
Cường chưa hề nếm mùi thất bại.
Từ Kid Dempsey không đối thủ đến Minh Cảnh vô địch Đông Dương
Trong
những “huyền thoại” cận đại, phải kể đến võ sĩ Kid Dempsey và Minh
Cảnh. Những người này đã làm rạng dang làng võ Việt Nam từ những năm
trước và sau chiến tranh thế giới lần thứ 2. Kid Dempsey thật sự là một
người Việt Nam. Tên thật là Văn Phát (Nguyễn Văn Phát), sinh năm 1914,
do ái mộ võ sĩ vô địch hạng nặng của Mỹ là Jack Dempsey nên đã tự đặt
cho mình cái tên Kid Dempsey. Phải nói rằng, đây là một võ sĩ Việt Nam
đầu tiên từng làm mưa làm gió trên võ đài trong nước và ngoài nước. Sau
khi thắng trận đầu tiên vào năm 1939, đoạt chức vô địch Đông Dương, Kid
Dempsey được mời sang Pháp thi đấu. Từ đó đến năm 1958, ông lưu trú luôn
tại đất Pháp, hành nghề võ sĩ, với các trận thắng vang dội các võ sĩ
người Pháp tại những thành phố lớn như Paris, Marseilles… rồi lấy vợ
Pháp, sinh con. Năm 1958, Kid Dempsey trở lại Sài Gòn, tiếp tục thượng
đài và hầu như không có đối thủ. Ông thắng hầu hết gần trăm trận đấu
khắp miền Nam và cả khu vực Đông Dương. Đến năm 1983, ông qua đời tại
quê hưong, đất Sài Gòn.
Sau
Kid Dempsey một thời gian, năm 1944, tại Sài Gòn đã nổi lên một tài
năng khác của làng võ. Đó là Minh Cảnh, một huyền thoại mới về quyền
Anh. Năm đó, Minh Cảnh đoạt chức vô địch quyền Anh Đông Dương, được tổ
chức tại Hà Nội. Ông vốn là đệ tử của võ sư Muôn, nhà vô địch quyền Anh
Việt Nam vào thời 1938-1940, lại được các võ sĩ tiền bối như Sáu Cường,
Thái Ngọc Kỳ (Rạch Giá) truyền dạy thêm những tuyệt kỹ, nên ở Minh Cảnh
có được tinh hoa của môn quyền Anh mang đặc tính phù hợp với thể chất
người châu Á, với căn bản kỹ thuật hoàn chỉnh, cộng thêm sự gan lì hiếm
thấy ở một võ sĩ. Minh Cảnh đã gây được tiếng vang lớn trên khắp võ đài
Đông Dương. Nhiều võ sĩ châu Âu đã bị Minh Cảnh hạ đo ván ngay tại Sài
Gòn, sau đó phải “tâm phục khẩu phục”, công nhận tài nghệ thật sự của
người có thể hình nhỏ nhắn, nhưng cực kỳ nhanh nhẹn và dũng cảm. Hiện
nay, võ sĩ Minh Cảnh đã lớn tuổi, vẫn sống đạm bạc ở Sài Gòn.
Huyền thoại võ Trung Hoa ở Chợ Lớn
Nói
đến võ thuật ở Sài Gòn mà không đề cập đến võ Trung Hoa là một thiếu
sót. Bởi vì, như đã nói ở phần đầu, làng võ Sài Gòn đã tích lũy cái vốn
rất quý của hai nguồn cội võ thuật, đó là võ dân tộc (võ Bình Định là
chính) và võ Thiếu Lâm. Chính các lưu dân gốc Trung Hoa, khi chạy nạn
Mãn Thanh, đã đem sang Việt Nam các tinh hoa võ thuật xứ họ.
Võ
Thiếu Lâm nói riêng và võ Trung Hoa nói chung chia ra nhiều hệ phái
ngay tại nguồn gốc của nó và khi truyền sang Việt Nam cũng giữ nguyên
như vậy. Vùng Sài Gòn – Chợ lớn là nơi tiếp nhận và sau đó phổ biến các
nơi. Có thể kê ra những phái chính của võ Trung Hoa được truyền dạy ở
Chợ Lớn ngay từ những năm của thế kỷ XVIII: Thái Cực Đường Lang, Thiếu
Lâm Hồng Gia, Thiếu Lâm Châu Gia, Thái Lý Phật, Nga Mi, Võ Đang. Đã có
những tên tuổi đáng gọi là “huyền thoại” trong làng võ Trung Hoa Chợ
Lớn, như Triệu Thúc Khê, Tạ Xy Vinh, Tạ Nam, Trần Nhất Minh, Đặng Văn
Thành, Tăng Huê, Triệu Di Văn, Huỳnh Thuận Quý (đệ tử đời thứ ba của Tổ
sư Thiếu Lâm Hồng Gia, Hồng Hy Quang)… Những tên tuổi trên đã làm rạng
danh sư Tổ của họ như Trương Tam Phong, Hồng Hy Quang, Lý Bá Sơn, Ngũ
Mai Sư Thái, Phùng Đạo Đức, Miêu Hiển, Chí Thiện Thiền Sư, Tân Uyên
Trưởng Lão, Châu Gia Ngũ Hổ…
Làng võ Sài Gòn theo dòng lịch sử
Cái
hay của võ sĩ Việt Nam là tuy tiếp thu cả nền võ học nước ngoài, nhưng
đã khéo léo cải biên, chắt lọc tinh hoa, để có riêng một số trường phái
mang đậm bản sắc dân tộc, gọi chung là võ Việt Nam. Người ta gọi Sài Gòn
là cái nôi của làng võ, bởi sự tiếp thu rộng rãi và biết chắt lọc, phát
huy như thế. Những huyền thoại của làng võ Sài Gòn sẽ còn tiếp nối các
tên tuổi khác đang theo dòng lịch sử…
Thượng Hồng / Địa chi
Đăng lại có chỉnh sửa từ bài viết “Làng võ Sài Gòn xưa – Những võ sĩ huyền thoại” đăng tại website Dân Sài Gòn
Đăng lại có chỉnh sửa từ bài viết “Làng võ Sài Gòn xưa – Những võ sĩ huyền thoại” đăng tại website Dân Sài Gòn
Ý Kiến độc Giả :Khang Sỉ Nguyễn :
Ngoài ra còn có danh thủ khác là Cậu Hai
Miên. và Đệ Tử Ông Bảy Bổn là ông Thâu Sửu từng đánh bại Tây Ba Đu tại
Sài Gòn. Trận đánh trên lầu 3, do Tây Ba Đu cố tình áp sát để hốt ông
Thân Sửu thả xuống đất nên ông tung 1 đấm thì hạ Tây Ba Đu.
Sau đó ông nhảy lầu trốn về quê.
Ông di tản sang Miên và bị Tây bắt ở
Miên.
Riêng thầy Bảy Bổn có giỏi và vang danh với cây roi sắt 2 kg với thế âm dương linh hoạt và đòn mút roi cực kì lợi hại
Riêng thầy Bảy Bổn có giỏi và vang danh với cây roi sắt 2 kg với thế âm dương linh hoạt và đòn mút roi cực kì lợi hại
Xem Thêm :Sài Gòn xưa: Hiệp sĩ cầu Ba Cẳng
Bài viết rất hấp dẫn bạn đọc
Trả lờiXóa