Thứ Bảy, 26 tháng 3, 2016

ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT



                             ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
         Đức QUÁN THẾ ÂM (Tiếng Phạn: अवलोकितेश्वर ), đọc đúng là QUÁN THẾ ÂM nghĩa là "Đấng quán chiếu âm thanh của thế gian", là một vị Bồ Tát hiện thân lòng từ bi của tất cả chư Phật. Được miêu tả trong nhiều nền văn hóa khác nhau, cả thân nam lẫn nữ giới, Quan Thế Âm là một trong những vị Bồ Tát được tôn kính thờ phụng rộng rãi nhất trong Phật giáo Đại thừa, cũng như không chính thức trong Phật giáo Nguyên thủy.
        Tên nguyên bản tiếng Phạn của vị Bồ tát này là Avalokiteśvara. Tên tiếng Hán Quán Thế Âm Bồ Tát (觀世音菩薩) được phiên dịch từ tên tiếng Phạn này, "Avalokiteśvara Bodhisattva". Bồ tát này thường được mô tả dưới nhiều dạng thân nam hay nữ, và cũng có thể được biết đến với tên gọi đơn giản là Quan Âm, hay Phật Bà Quan Âm.
        Namo Avalokiteshvara Bodhisattva là câu niệm hồng danh của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát.
                
                     Tương  Phật Quan Âm nghìn mắt nghìn tay lưu tại Bảo Tàng Hà Nội

        Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian. Theo Phẩm Phổ môn trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, sở dĩ ngài mang tên gọi như vậy là do hạnh nguyện từ bi cứu khổ cứu nạn, mỗi khi chúng sanh bị khổn ách, nguy cấp liền nhất tâm niệm danh hiệu của Bồ Tát thì Ngài liền quán xét âm thanh đó, lập tức cứu họ thoát khỏi tai ách.
        Trong Bát Nhã Tâm Kinh, vị Bồ Tát này mang tên là Quán Tự Tại dựa trên pháp môn tu tập của Ngài. Khi quán chiếu thâm sâu vào chính mình, Ngài nhận thấy năm uẩn không có tự tính và đều là giả tạm, ngộ ra được điều đó, Ngài vượt thoát tất cả mọi khổ đau ách nạn.
       Bồ Tát Quán Thế Âm còn được biết đến với tên gọi Bồ Tát Quán Âm, Từ Hàng Bồ Tát hay Từ Hàng Đại sĩ.
       Trong Kinh Đại bi Tâm Đà Ra Ni, Đức Phật Thích Ca dạy Ngài Anan rằng trong vô lượng kiếp về trước, Quán Thế Âm Bồ Tát đã thành Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, vì nguyện lực đại bi, vì muốn làm duyên phát khởi cho tất cả các hàng Bồ Tát, vì muốn an vui thành thục cho chúng sanh, Ngài mới hiện thân làm Bồ Tát, danh hiệu là Quán Thế Âm, thường trụ thế giới Ta Bà, đồng thời cũng là thị giả trợ tuyên chánh pháp cho Đức Phật A Di Đà ở Tây phương Cực Lạc.
        Trong Kinh Đại Bi Liên Hoa (Kinh Bi Hoa), Bồ Tát Quán Thế Âm là quyến thuộc bồ đề của vô lượng bồ tát khác và Phật A Di Đà, trước khi phát nguyện lớn, Ngài là Thái tử Bất Huyền, con trưởng trong một nghìn người con của Chuyển luân vương Vô Tránh Niệm, người sau này là Phật A Di Đà. Bồ Tát Quán Thế Âm được Đức Phật Bảo Tạng thọ ký rằng, Đức Phật A Di Đà dù có thọ mạng vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp cũng sẽ nhập Niết bàn, khi đó Quán Thế Âm Bồ Tát tiếp quản chánh pháp và cõi Cực Lạc, thành Phật hiệu là Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
         Trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Quán Thế Âm Bồ Tát được gọi là Quán Tự Tại Bồ Tát, ẩn tàng một triết lý sâu xa và phương thức tu tập nhiệm mầu nhờ quán chiếu mà được tự tại, giải thoát.
         Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Đức Phật đã giải thích rõ cho Vô Tận Ý Bồ Tát về ý nghĩa của danh hiệu Quán Thế Âm là do vị Bồ Tát này khi nghe âm thanh của chúng sanh xưng danh hiệu mình thì tức thời tầm thanh để cứu khổ. Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị các khổ não nghe đến danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, một lòng xưng danh Ngài thì ngay khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm tức thì quán sát âm thanh ấy, khiến cho họ đều được giải thoát.
        Cũng theo kinh này thì Quán Thế Âm Bồ tát có 32 ứng hóa hiện thân là thân Phật, Bích Chi (Duyên Giác), Thanh Văn, Phạm Vương, Đế Thích, Đại Tự Tại Thiên, Đại Tự Tại, Thiên Đại Tướng Quân, Tỳ Sa Môn, Tiểu Vương, Trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan, Bà-la–môn, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Phụ nữ, Đồng nam, Đồng nữ, Thiên Long, Dạ xoa, Càn-thát-bà Ca-lâu-la, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi nhân, Thần chấp Kim Cang. 
         Sau này lại có thêm 33 hóa thân khác của Quán Âm, những hóa thân này không dựa vào Kinh sách mà chỉ dựa vào tư tưởng hóa độ lục đạo kết hợp với 33 Ứng hóa thân trên pha trộn với tín ngưỡng dân gian của Nhật BảnTrung Hoa mà tạo thành, đó là các hồng danh: Dương Liễu Quán Âm, Long Đầu Quán Âm, Trì Kinh Quán Âm, Viên Quang Quán Âm, Du Hý Quán Âm, Bạch Y Quán Âm, Liên Ngọa Quán Âm, Lang Kiến Quán Âm, Thí Dược Quán Âm, Ngư Lam Quán Âm, Đức Vương Quán Âm, Thủy Nguyệt Quán Âm, Nhất Diệp Quán Âm, Thanh Cảnh Quán Âm, Uy Đức Quán Âm, Diên Mạng Quán Âm, Chúng Bảo Quán Âm, Nham Hộ Quán Âm, Năng Tĩnh Quán Âm, A Nậu Quán Âm, Vô Úy Quán Âm, Diệp Y Quán Âm, Lưu Ly Quán Âm, Đa La Quán Âm, Cáp Lỵ Quán Âm, Lục Thời Quán Âm, Phổ Bi Quán Âm, Mã Lang Phụ Quán Âm, Hiệp Chưởng Quán Âm, Nhất Như Quán Âm, Bất Nhị Quán Âm, Trì Liên Quán Âm, Sái Thủy Quán Âm.
         Quán Thế Âm Bồ Tát là Bồ Tát trợ tuyên đắc lực của Phật A Di Đà ở Tây Phương Cực Lạc. Quán Thế Âm Bồ Tát thể hiện lòng Bi (sa., pi. karuṇā), một trong hai dạng của Phật tính. Vì vậy, danh hiệu của ngài thường kèm theo từ Đại Bi (sa. mahākāruṇika). Dạng kia của Phật tính là Trí tuệ (Bát-nhã, sa. prajñā), là đặc tính được Bồ Tát Đại Thế Chí thể hiện, bên tay phải của Phật A Di Đà. Với lòng từ bi vô lượng, Quán Thế Âm thể hiện sức mạnh huyền diệu cứu giúp mọi chúng sinh quán tưởng đến mình lúc gặp hiểm nguy. Trong nhân gian, Quán Thế Âm là vị bảo hộ tránh khỏi tai hoạ và hay được phụ nữ không con cầu tự.
        Trong các loại tranh tượng về Quán Thế Âm, người ta thấy có 33 dạng, khác nhau về số đầu, tay và các đặc tính. Thông thường ta thấy tượng Bồ Tát có ngàn tay ngàn mắt, có khi 11 đầu. Trên đầu có khi có tượng A-Di-Đà, xem như đặc điểm chính. Trên tay có khi thấy Bồ Tát cầm hoa sen hồng, vì vậy nên Quán Thế Âm cũng có tên là Liên Hoa Thủ (người cầm hoa sen, sa. padmapāṇi) hay nhành dương liễu và một bình nước Cam-lộ (sa. amṛta). Số tay của Bồ Tát biểu hiện khả năng cứu độ chúng sinh trong mọi tình huống.
        Trong tranh tượng với 11 đầu thì Quán Thế Âm mang 9 đầu của chín vị Bồ Tát, một đầu của một vị Phật và cuối cùng là đầu của Phật A-Di-Đà. Cứ mỗi ba đầu tượng trưng là ba đặc tính: từ bi với chúng sinh khổ nạn, quyết tâm đối trị cái xấu, hoan hỉ với cái tốt. Theo một cách nhìn khác thì 11 đầu biểu tượng cho mười cấp của Thập địaPhật quả.
Đôi lúc Quán Thế Âm Bồ Tát cũng được trình bày dưới một dạng ít thấy, đó là "Sư Tử Hống Quán Tự Tại" (獅子吼觀自在, sa. siṃhanāda-lokeśvara). Dưới dạng này, Bồ Tát là một Dược sư, đặc biệt cứu độ những người bệnh phong cùi (lepra). Mắt Bồ Tát đang nhìn bệnh nhân và mắt chính giữa (huệ nhãn) đang tập trung chẩn bệnh. Hai bảo vật bên vai cũng là những dụng cụ của một dược sĩ, bình sắc thuốc bên trái của Bồ Tát và đao trừ tà (bệnh) bên phải. Sư tử Bồ Tát cưỡi xuất phát từ một sự tích. Tương truyền rằng, có một con sư tử sinh được một con nhưng con chết ngay sau khi sinh. Đau đớn quá nó rống lên thật to và nhờ tiếng rống uy dũng này, nó làm cho con nó sống lại. Vì thế mà có sự liên hệ giữa tên của Sư Tử Hống Quán Tự Tại ("giọng sư tử") với nghề nghiệp của một dược sĩ "gọi người sống lại".
        Một thuyết khác giải thích tích của 11 đầu và nghìn tay: Lúc Quán Thế Âm quán chiếu cảnh khổ của chúng sinh thì đầu Bồ Tát đau xót vỡ ra từng mảnh. Phật A-Di-Đà xếp các mảnh đó lại thành 11 đầu. Xuất phát từ nguyện lực cứu độ mọi chúng sinh, thân Bồ Tát mọc ra nghìn tay, trong mỗi tay có một mắt. Quán Thế Âm cũng hay được vẽ là một vị Bồ Tát cứu độ chúng sinh trong sáu nẻo Luân hồi (Lục đạo): trong súc sinh, Quán Thế Âm đầu ngựa, hoặc cưỡi sư tử; trong địa ngục, người có nghìn cánh tay; trong cõi A-tu-la, người có 11 đầu.
         Tại Trung Quốc, Việt Nam và Nhật Bản, Quán Thế Âm được trình bày dưới dạng thân nữ Bạch Y Hành Giả, tức vị nữ hành giả mặc y phục màu trắng. Tại Tây Tạng, Quán Thế Âm (bo. chenresi [spzan ras gzigs]) là "người bảo vệ xứ tuyết" và có ảnh hưởng trung tâm trong truyền thống Phật giáo tại đây. Người ta xem Bồ Tát là cha đẻ của dân tộc Tây Tạng và nhờ Ngài mà Phật giáo được truyền bá qua nhà vua Tùng-tán Cương-bố (bo. songten gampo, 620-649), được xem là một hiện thân của Quán Thế Âm. Đạt Lại Lạt Ma và Cát-mã-ba (bo. karmapa) cũng được xem là hiện thân của Quán Thế Âm. Câu Man-tra OṂ MA-NI PAD-ME HŪṂ được xem là thuộc tính của Quán Thế Âm, là thần chú đầu tiên truyền đến Tây Tạng và ngày nay được tụng đọc nhiều nhất. Tranh tượng của Bồ Tát được biểu diễn bằng một người có 11 đầu và ngàn cánh tay hoặc trong dạng có bốn tay, ngồi toà sen.

   
            Hình Quán Thế Âm Bồ Tát ngự tòa sen

         Trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, là Phổ Độ Lần Thứ Ba hay Đạo Cao Đài của Đức Chí Tôn, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát được thờ trên tượng Thiên Nhãn, ngự trên tòa sen như là vị đại diện cho Đức Phật Thích Ca lãnh lịnh Đức Chí Tôn trong Tam Trấn Oai Nghiêm mà Ngài là Nhị Trấn. Nhứt Trấn là Đức Lý Đại Tiên Trưởng (Lý Thái Bạch), Tam Trấn là Đức Quan Thánh Đế Quân. Ngài là một vị Nữ Phật, nhưng còn mang danh Bồ Tát vì Ngài còn nhiệm vụ cứu độ chúng sanh. Theo quan niệm của Phật giáo Tây Tạng, Ngài hóa thân mình vào vua Đạt Lai Lạt Ma, vua cai trị xứ Tây Tạng nên các vị Đạt Lai Lạt Ma truyền tiếp được xem là các vị Phật sống, hóa sinh của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngài có một hiện thân gồm 11 cái mặt, 1000 cánh tay, 1000 con mắt, 108 hồng danh. Ngài ngự trên đền Polata nơi kinh đô Lhassa, xứ Tây Tạng.
         Trong Luật Tam Thể, Bát Nương có giáng cơ dạy rằng: “Dưới quyền của Phật Mẫu có Cửu Vị Tiên Nương trông nom về cơ Giáo Hóa cho Vạn linh, còn ngoài ra có hằng hà sa số Phật trông nom về cơ Phổ Độ mà Quan Thế Âm Bồ Tát  là Đấng cầm đầu. Quan Thế Âm Bồ Tát ngự tại Cung Nam Hải, ở An Nhàn Động, còn Cung Diêu Trì thì ở tại Tạo Hóa Thiên”.
        Theo các kinh sách còn truyền lại, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát có 33 kiếp giáng trần, khi thì làm nam nhi; khi thì làm thiếu nữ, khi thì giáng sanh nơi gia đình cao sang quyền quí; khi lại giáng sanh nơi gia đình nghèo nàn khổ cực; khi thì làm Đạo sĩ khi thì làm Tỳ kheo. Có hai kiếp làm phụ nữ được đời truyền tụng đến ngày nay. Đó là: Kiếp thứ 10, giáng trần là nàng Thị Kính ở nước Cao Ly, tu hành đắc đạo, là Quan Âm Thị Kính. Kiếp chót Ngài giáng làm Công chúa Diệu Thiện ở Ấn Độ, cũng tu hành đắc đạo tại chùa Phổ Đà Sơn (Nam Hải) gọi là Quan Âm Diệu Thiện.
         Ngày lễ Vía Đức Quán Thế Âm Bồ Tát được tổ chức trọng thể trong Đạo Cao Đài. Đó là ngày 19 tháng 2 Âm Lịch hằng năm.
Hồ Xưa sưu tầm từ các tài liệu trang điện tử Wikipedia sắp xếp lại________


_______________

ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Kỉnh d thành tâm hướng Pht đài,
Lạy cu thế gii hết thiên tai.
Đức nguyn thi th cho sanh chúng,
Quán trit thin tâm cu vn loài.
Thế gii thương yêu thân tr gánh,
Âm dương hòa hp đ đn vai.
Bồ kết gii đng ân nghĩa tc,
Tát tan kh não bin trn xoay.
                           
  HỒ NGUYỄN (12-3-2016)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

EM MÙA THU, CHIỀU MƯA THÁNG MƯỜI - Thơ Ngọc Ánh

Tranh Hứa Xuân Trường EM MÙA THU Em ďi dưới nắng Xuân hồng đó Mái tóc mây trời trong trắng bay Má đào đã ửng hây hây đỏ Em thướt tha ngời tr...