Nguồn gốc:
Ngày Lễ Trung
Ngươn hay là Lễ Vu Lan xãy ra vào ngày Rằm tháng 7 Âm Lịch hàng năm, do từ sự
tích về Bồ Tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ.
Vu Lan là ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói chung) -
cha mẹ của kiếp này và của các kiếp trước.
Theo Kinh Vu
Lan Bồn thì ngày xưa, Ngài Mục Kiền Liên đã tu luyện thành công nhiều phép thần
thông. Mẫu thân Ngài là bà Thanh Đề đã qua đời, ông tưởng nhớ và muốn biết bây
giờ mẹ mình như thế nào nên dùng mắt phép thần thong nhìn khắp trời đất để tìm
kiếm. Thấy mẹ mình, vì gây nhiều nghiệp ác nên phải sanh làm ngạ quỷ, bị đói
khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên, do
đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình đi,
tránh không cho các cô hồn khác đến tranh cướp. Vì vậy, khi thức ăn đưa lên
miệng thì thức ăn đã hóa thành lửa đỏ, không thể ăn được. Mục Liên quay về và
tìm đến Phật để hỏi cách cứu mẹ.
Phật dạy rằng:
"Dù ông thần thông quảng đại đến thế nào cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu.
Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu
được. Ngày Rằm tháng Bảy là ngày thích hợp để vận động chư tăng, hãy sắm sửa lễ
cúng vào ngày đó". Làm theo lời Phật dạy, mẹ của Mục Liên đã được giải
thoát. Phật cũng dạy rằng chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách
này, là Vu Lan Bồn Pháp. Tục lệ đã có từ đó đến nay.
Và ngày lễ Vu
Lan ra đời.
Sự tích ngày xá tội vong nhân:
Sự tích lễ
cúng cô hồn cũng vào ngày Rằm tháng Bảy có nguồn góc như sau: Căn cứ theo
"Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni Kinh" mà suy ra thì thấy
việc cúng cô hồn có liên quan đến câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt
là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm
nhiên).
Có một buổi tối
nọ, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy,
cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau A Nan
sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ, miệng lửa mặt cháy như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi
khổ đồ. Quỷ đói nói: "Ngày mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi mỗi
đứa một hộc thức ăn, lại vì tôi mà cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ
mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cõi trên". A Nan đem chuyện bạch với Ðức
Phật. Phật bèn đặt cho bài chú gọi Là "Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La
Ni", đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ
cúng này là Phóng diệm khẩu, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ
đói miệng lửa, nhưng dân gian thì hiểu rộng ra và trại đi thành cúng cô hồn,
tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ không nơi nương tựa vì không có ai là
thân nhân trên trần gian cúng bái. Vì tục cúng cô hồn bắt nguồn từ sự tích này,
cho nên ngày nay người ta vẫn còn nói cúng cô hồn là Phóng diệm khẩu. Có khi
còn nói tắt thành Diệm khẩu nữa. Diệm khẩu, từ cái nghĩa gốc là (quỷ) miệng
lửa, nay lại có nghĩa là cúng cô hồn. Ðiều này góp phần xác nhận nguồn gốc của
lễ cúng cô hồn đã trình bày trên đây. Phóng diệm khẩu mà nghĩa gốc là "thả
quỷ miệng lửa", về sau lại được hiểu rộng thêm một lần nữa thành "tha
tội cho tất cả những người chết". Vì vậy, ngày nay mới có câu: "Tháng
bảy ngày rằm xá tội vong nhân".
Nhưng lễ cúng
cô hồn khác với lễ Vu Lan dù được cử hành trong cùng ngày Rằm tháng Bảy. Một
đằng là để cầu siêu cho cha mẹ nhiều đời được siêu thoát, một đằng là để bố thí
thức ăn cho những vong hồn chưa được siêu thoát, những vong hồn không nơi nương
tựa, không người cúng kiến.
Sự tích Ngưu Lang – Chức Nữ:
Thuở xưa, có vị thần chăn trâu của Ngọc Hoàng
tên là Ngưu Lang, vì say mê nhan sắc của một tiên nữ phụ trách việc dệt vải tên
là Chức Nữ nên bỏ bễ việc chăn trâu, để trâu đi nghênh ngang vào điện Ngọc Hư.
Chức Nữ cũng vì mê tiếng tiêu của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải. Ngọc
Hoàng thượng đế giận giữ, bắt cả hai phải ở cách xa nhau, người đầu sông Ngân,
kẻ ở cuối sông. Nhưng về sau, Ngọc Hoàng nghĩ lại, thương tình nên ra ơn cho
Ngưu Lang và Chức Nữ mỗi năm được gặp nhau một lần vào đêm mùng 7 tháng Bảy âm
lịch. Khi tiễn biệt nhau, Ngưu Lang và Chức Nữ khóc sướt mướt. Nước mắt của họ
rơi xuống trần gian, hoá thành cơn mưa và được người dưới trần gian đặt tên là
mưa Ngâu (thông thường vào tháng Bảy âm lịch) và gọi họ là ông Ngâu, bà Ngâu.
Thời bấy giờ sông Ngân trên thiên đình không có một cây cầu nào cả nên Ngọc
Hoàng mới ra lệnh cho làm cầu để Ngưu Lang và Chức Nữ được gặp nhau. Các phường
thợ mộc ở trần thế được vời lên trời để xây cầu. Các phường thợ mộc mạnh ai nấy
làm, không ai nghe ai. Kẻ muốn làm kiểu này, người muốn làm kiểu kia, cãi nhau
chí chóe. Đến kỳ hạn mà cầu vẫn không xong. Ngọc Hoàng bực quá, giận và bắt tội
các phường thợ mộc hóa kiếp làm quạ lấy đầu sắp lại làm cầu cho Ngưu Lang và
Chức Nữ gặp nhau. Bị hoá làm quạ, các phường thợ mộc lại càng giận nhau hơn. Vì
thế cứ tới tháng bảy là loài quạ phải họp nhau lại để chuẩn bị lên trời bắc Ô
kiều. Khi gặp nhau, nhớ lại chuyện xưa nên chúng lại lao vào cắn mổ nhau đến
xác xơ lông cánh. Ngưu Lang và Chức Nữ lên cầu, nhìn xuống thấy một đám đen lúc
nhúc ở dưới chân thì lấy làm gớm ghiếc, mới ra lệnh cho đàn chim ô thước mỗi
khi lên trời làm cầu thì phải nhổ sạch lông đầu. Từ đó, cứ tới tháng bảy thì
loài quạ lông thì xơ xác, đầu thì rụng hết lông. Có dị bản khác cho rằng tên
gọi của Ô kiều là cầu Ô Thước do chim Ô (quạ) và chim Thước (chim Khách) kết
cánh tạo ra.
Ngoài ra, theo tín ngưỡng truyền thống của người Việt Nam thì Tiết Trung Nguyên cũng là tiết của dịp “Xá tội vong nhân” nơi Âm Phủ. Người xưa cho rằng: Ngày Rằm tháng Bảy Âm lịch hàng năm thì mọi tội nhân cõi Âm, trong đó có những vong linh của gia đình, họ tộc mình đang bị giam cầm nơi địa ngục được xá tội và ra khỏi Âm Phủ lên Dương gian. Bởi vậy, các gia đình ở Dương gian làm cỗ bàn, vàng mã cúng gia tiên, cầu siêu độ trì cho họ. Ngoài cúng gia tiên ngày “Xá tội vong nhân” mọi nhà còn bầy lễ cúng chúng sinh ngoài sân, trước thềm nhà để cúng cô hồn, ma đói là những vong linh “không nơi nương tựa” như nói ở phần trên.
Ngoài ra, theo tín ngưỡng truyền thống của người Việt Nam thì Tiết Trung Nguyên cũng là tiết của dịp “Xá tội vong nhân” nơi Âm Phủ. Người xưa cho rằng: Ngày Rằm tháng Bảy Âm lịch hàng năm thì mọi tội nhân cõi Âm, trong đó có những vong linh của gia đình, họ tộc mình đang bị giam cầm nơi địa ngục được xá tội và ra khỏi Âm Phủ lên Dương gian. Bởi vậy, các gia đình ở Dương gian làm cỗ bàn, vàng mã cúng gia tiên, cầu siêu độ trì cho họ. Ngoài cúng gia tiên ngày “Xá tội vong nhân” mọi nhà còn bầy lễ cúng chúng sinh ngoài sân, trước thềm nhà để cúng cô hồn, ma đói là những vong linh “không nơi nương tựa” như nói ở phần trên.
Sắm lễ:
Ngày Rằm tháng Bảy theo tục xưa, mọi gia đình đều sắm hai lễ
để cúng như sau:
+ Lễ cúng gia tiên
gồm: Hương, hoa, rượu, xôi và mâm cỗ mặn với nhiều món ăn được chế biến cẩn
thận, trình bày đẹp, vàng mã, quần áo, hài giấy…
+ Lễ cúng chúng sinh
gồm các lễ vật: Bánh đa, bông, ngô, khoai lang luộc, trứng luộc, kẹo bánh, xôi
chè và cháo hoa. Vàng mã, tiền giấy, quần áo chúng sinh…
Văn khấn lễ tổ tiên (Ngày rằm tháng Bảy tại nhà) như sau::
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
– Con lạy chín phương
Trời, mười phương Chư vị Phật, Chư Phật mười
phương.
– Con kính lạy Tổ tiên
nội ngoại và chư vị Hương linh.
Tín chủ (chúng) con tên là:………………………………Ngụ tại:Ấp, làng, xã, tỉnh, xứ:………………………
Hôm nay là ngày Rằm tháng Bảy năm (Bính Thân), nhân gặp tiết Vu Lan vào dịp Trung Nguyên, chúng con nhớ đến Tổ tiên ông bà cha mẹ đã sinh thành ra chúng con gây dựng cơ nghiệp, xây đắp nền nhân, khiến nay chúng con được hưởng âm đức. Chúng con cảm nghĩ ơn đức cù lao khôn báo, cảm công trời biển khó đền nên tín chủ con sửa sang lễ vật, hương hoa, trà quả, kim ngân, vàng bạc, thắp nén tâm hương, thành tâm kính lên các cụ Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Bá Thúc, Đệ Huynh, Cô Dì, Tỷ Muội và tất cả hương hồn trong nội tộc, ngoại tộc của họ…………., cúi xin các vị thương xót cháu con, linh thiêng hiện về, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, phù hộ cho con cháu mạnh khoẻ bình an, lộc tài vượng tiến, vạn sự tốt lành, gia đạo hưng long, hướng về chính giáo.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án
kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô ……………..! (Niệm Phật hay niệm
Đấng Cao Đài)
Rằm Trung
Ngươn (còn gọi là Rằm Tháng Bảy), đây là truyền thống vô cùng tốt đẹp cũng đã
in sâu vào tâm hồn của người tín đồ Cao Đài với tình cảm thiêng liêng “Cây có
cội, nước có nguồn” dâng lên tấm lòng tôn kính báo nhân dịp Đại lễ Trung Ngươn
Rằm Tháng 7 Âm Lịch hàng năm.
Tôn Giáo Cao Đài
trong năm có 3 ngày trong Tam Nguơn lưu chuyển, Rằm Thượng Nguơn, Trung Nguơn
và Hạ Ngươn đều thiết lễ Đại Đàn Cúng Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và Thần, Thánh,
Tiên, Phật, tại Tòa Thánh Tây Ninh, các Thánh Thất, Điện Thờ Phật Mẫu địa
phương, dâng sớ cầu nguyện cho các đẳng chơn hồn, chiến sĩ vị quốc vong thân và
đồng bào tử nạn được siêu thăng tịnh độ trở về cõi Thiêng Liêng Hằng
Sống.
Nho Giáo sách
Trung Dung Đức Khổng Tử nói về vua Thuấn: “Hiếu hạnh của vua Thuấn lớn lắm vậy.
Luận về đức, Ngài là bậc thánh nhân, luận về công thì Ngài ở ngôi thiên tử,
luận về giàu thì giàu bốn biển, ông bà cha mẹ được hưởng cúng tế trong tông
miếu, con cháu được triều đình ban cho phước lộc. Vì hiếu của Ngài rất lớn nên
đời sau tặng cho Ngài là địa quan xá tội.”
Rằm tháng 7 làm
kỷ niệm vua Thuấn là địa quan xá tội, tưởng nhớ đến ông bà cha mẹ quá vãng, mà
thực lòng cầu khẩn cho cha mẹ ông bà được siêu thăng thì được vua Thuấn cảm ứng
xem xét lòng hiếu thảo của con cháu mà xá tội người quá cố khỏi chịu hành
phạt.
Phật Giáo thì
Đức Phật Thích Ca dạy các phật tử làm Lễ Vu Lan Bồn trai tăng cúng dường, nhờ
chư Đại Đức, Tỳ Kheo, Tăng Ni chú nguyện cho cha mẹ ông bà đã lâm chung được
siêu thoát khỏi bị đọa đày khổ não nơi địa ngục.
Đạo Cao Đài
thì không có dâng sớ cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ trong dịp Rằm tháng Bảy
(vì đã dâng sớ cầu nguyện Rằm tháng Giêng) mà chỉ cầu nguyện cho các đẳng chơn
hồn, đồng bào tử nạn và các chiến sĩ trận vong, xin cứu giúp chúng sanh thoát
ly khổ ải gặp mọi sự tốt lành.
Tài liệu sưu tầm.
Hồ Xưa trình bày và chuyển tặng _____________
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét