(Rút từ facebook của Ngô Thị Kim Cúc)
Tháng Tư, một đoàn tám người, “cơ cấu tùy hứng”,
đã về Lộc Ninh – Bình Phước thăm nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ, bởi biết
chị bị tai nạn gãy chân trước đó mà chưa lên thăm được.
Trong năm nhà văn nữ nổi tiếng nhất của miền nam
thời kỳ trước 1975, có ba người gốc Huế: Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị
Hoàng. Người thứ tư gốc Bắc di cư: Trùng Dương. Chỉ có Nguyễn Thị Thụy
Vũ là dân Nam bộ rặt. Văn chương của chị cũng đặc sệt chất Nam bộ, từ
ngôn phong, từ ngữ chị dùng cho tới lời ăn tiếng nói, tính cách, hành vi
của các nhân vật. Nguyễn Thị Thụy Vũ tên thật là Nguyễn Thị Băng Lĩnh,
sinh năm 1937 tại Vĩnh Long.
Xuất thân là một cô giáo tỉnh nhỏ ở Vĩnh Long
nhưng tác phẩm của Thụy Vũ ngồn ngộn chất “đời” của Sài Gòn đô thị, sát
sàn sạt những thực-tế-tàn-nhẫn mà không phải người phụ nữ nào cũng có
điều kiện để hiểu biết. Đó chính là “vốn sống” mà chị tích lũy được khi
vào năm 1965 chị lên Sài Gòn dấn thân vào nghiệp viết lách, bên cạnh đó
còn kiêm việc dạy tiếng Anh cho những cô gái bán bar hoặc lấy Mỹ.
Trong 10 năm từ 1965 đến 1975, chị đã xuất bản 10 tác phẩm gồm ba tập truyện ngắn: Mèo đêm, Lao vào lửa, Chiều mênh mông; và bảy tiểu thuyết: Ngọn pháo bông, Thú hoang, Khung rêu (Giải thưởng Văn học toàn quốc năm 1971), Như thiên đường lạnh, Nhang tàn thắp khuya, Chiều xuống êm đềm, Cho trận gió kinh thiên.
Sau 1975, dù là con gái một cán bộ kháng chiến –
nhà văn Mặc Khải – Nguyễn Thị Thụy Vũ vẫn không thể tiếp tục cầm bút do
tác phẩm bị quy là đồi trụy, chị phải bươn chải với những công việc cực
nhọc để nuôi bốn đứa con, trong đó có một người sống đời thực vật. Chị
từng buôn bán vặt, làm lơ xe đò, làm rẫy, chăn dê, trồng cà phê…, những
công việc mà trước đó không ai hình dung nhà văn nữ này có thể kham
được.
Hiện nay đời sống của chị tương đối ổn định khi
chị về dựng nhà trên mảnh đất mà cha mẹ để lại. Đó là sau khi chị nhận
được sự giúp đỡ từ những bạn văn cũ qua một bài viết mô tả cuộc sống lây
lất khốn khó của mấy mẹ con, vào đầu thập niên 2000. Chị đang sống với
gia đình con trai, là một người tu tại gia chuyên việc hộ niệm, và cùng
với họ là cô con gái út ngoài bốn mươi tuổi vẫn sống đời thực vật.
Phần ngoài cùng của căn nhà, sát mặt đường nhựa
là Cửa hàng Cá cảnh Sinh vật biển và Hoa kiểng Trúc Hạc. Phần nhà ở phía
trong tương đối rộng, thoáng, với một số đồ gỗ chị đã mang về từ ngôi
từ đường của dòng họ, mà sau 1975 cha chị đã hiến tặng nhà nước để làm
cơ quan nhưng lại bị sử dụng làm nơi sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ.
Gian thờ thật trang nghiêm với bàn thờ Phật A Di Đà, Quán Thế Âm và Đại
Thế Chí cùng với hai câu “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc – Sắc tức
thị Không, Không tức thị Sắc”.
Gian kề thờ ông bà, với hình một hoa hồng trắng
thật lớn làm nền, trên đó đính tên những người quá cố, cùng với hai câu:
“Bốn bể tung hoành ngang với dọc – Ra đi thanh thản tựa như về”.
Câu chuyện giữa chủ khách mới bắt đầu đã rôm rả
thân mật dù nhiều người chị mới gặp lần đầu. Mái tóc bạc cắt ngắn có vẻ
được chăm chút, bộ quần áo lụa giữa màu lam và màu mỡ gà rất hợp với
tuổi tác và nước da trắng trong veo, có lẽ bị cớm nắng sau thời gian dài
không ra ngoài được, trông chị thật đẹp, một vẻ đẹp phúc hậu bình yên.
Tuy nhiên nụ cười nhuốm chút tinh nghịch mỉa mai cùng những ngôn từ sắc
sảo hài hước và trí nhớ mẫn tuệ cho thấy chị vẫn là một Nguyễn Thị Thụy
Vũ-ngày xưa, cho dù đã vào tuổi tám mươi.
Đôi chân chị đã có thể bước đi chầm chậm trong
nhà dù vẫn chập chững và phải tựa trên gậy chống. Chị đãi khách những
trái dừa rất ngọt hái trong vườn nhà, cả loại trà ngon đặc biệt và sau
đó ngồi bên khách ồn ào vui vẻ trong bữa trưa món mặn chỉ với vài muỗng
cơm chay, bởi từ lâu chị đã ăn chay trường.
Mọi người cứ lo chị mệt nhưng sau bữa trưa chị
lại hết sức vui vẻ tiếp tục “hồi ký” không ngừng bao nhiêu câu chuyện về
người thân trong gia đình, về các cô gái mà chị dạy tiếng Anh trước
1975, về những tháng ngày xáo trộn kinh hoàng sau 1975, và nhiều nhất về
mối tình nổi tiếng giữa chị với nhà thơ Tô Thùy Yên, mối tình đã cho họ
ba đứa con chung, nối kết họ với cả một quá khứ đã thay màu đổi sắc của
Sài Gòn cũ… Chị khiến mọi người, hầu hết là kẻ hậu sinh, cứ há hốc mồm
ra nghe như hút từng lời và phì cười không đừng được khi biết đến vô vàn
kỷ niệm có một không hai trong cuộc sống chung của hai người, kể cả
việc chị đi thăm nuôi anh khi anh đang “học tập cải tạo”…
Tôi nhớ nhất câu chị nhắc lời anh Tô Thùy Yên
từng nói về chị với một bạn gái: “Không phải vợ nhưng là người tri kỷ
của anh…”. Hẳn anh đã nói rất trung thực và chính xác. Không ai đem kể
cho vợ nghe chuyện bồ bịch của mình như anh thường kể với chị không hề
giấu giếm che đậy. Bởi vì, hơn cả người yêu, hơn cả chồng vợ, họ là một
cặp trời sinh để gặp nhau rồi nợ nần nhau… Người yêu thì có thể bỏ. Vợ
thì có thể ly dị. Nhưng tri kỷ thì không cưới hỏi, không ly dị và không
biết làm cách nào để “bỏ” được nhau…
Có lẽ họ là phần “bổ sung/phản biện”,
phần-trái-dấu-nên-hút-nhau-theo-định-luật… Họ, những “đôi lứa bên trời
lận đận”, vừa giống mà cũng vừa chẳng thể giống với bất cứ lứa đôi nào
trong quá khứ chiến tranh dằng dặc của một đất nước/dân tộc Việt Nam bị
đày ải…
Chiến tranh đã chấm dứt được gần bốn mươi mốt năm rồi sao… Hay thật ra, nó vẫn đang tiếp diễn…?
Với nước da trắng muốt trong veo, mái tóc bạc và nụ cười hiền,
“người đẹp” tám mươi tuổi Nguyễn Thị Thụy Vũ trong giống bà tiên trong
chuyện cổ… Vinh dự theo hầu bà tiên hiền là Kim Cúc Ngô Thị và nhà thơ Ý Nhi…
Theo thứ tự từ trái qua: Kim Cúc Ngô Thị, nhà báo Thanh Vân, nhạc sĩ Bạch Cung Thạnh, nhà văn – dịch giả Mai Sơn, nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ, nhà thơ – nhà báo Ly Doi, họa sĩ Lê Ký Thương, nhà nghiên cứu Khanh Tram Nguyen Thi, nhà thơ Ý Nhi.
* Mất ảnh
*mất ảnh
“Bốn bể tung hoành ngang với dọc, Ra đi thanh thản tựa như về”.
“Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc – Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”…
Trang nghiêm và thanh tịnh.
*Mời bạn đọc một trong những truyện ngắn của Nguyễn Thị Thụy Vũ:
6 Tác phẩm của Thụy Vũ
🌷🌷🌷🌷🌷🌷🌷
LÒNG TRẦN (Chuyện Ngắn )
Con đê dài rộng, hai bên trồng dừa Tam Quan cao
hơn đầu người thẳng hàng, đều khoảng. Những quày dừa màu hỏa hoàng oằn
trái. Bóng dừa chìm dưới đáy nước của hai đầm sen – bên trái đầm sen
trắng, còn bên phải đầm sen hồng. Từ con đê đi vào khoảng ba trăm thước,
một ngôi chùa nằm im lìm giữa hai hàng dương.
Chùa này vì ít thiện nam tín nữ lui tới nên càng
thêm vẻ đìu hiu, lạnh ngắt. Từ đường cái nhìn vào, ít khi người ta nhìn
thấy bóng dáng những nhà tu. Chỉ nhìn thấy chiếc tháp cao trơ vơ với rêu
bám nham nhở và vài viên gạch mục rớt ra lở lói. Mái chùa thấp ẩm ướt
và bóng tối đặc quánh. tiếng kêu vo ve của đám muỗi đói lẫn tiếng chí
chóe của đàn chuột dưới những bàn thờ và tiếng vỗ cánh của đàn dơi
hoang. Cao hứng chúng bài tiết bừa bãi không vị nể các ông Phật đang
ngồi trang nghiêm nhìn ánh đèn chong leo lét. Bình hoa huệ sắp tàn, chỉ
còn vài búp gắng gượng trên chót nhánh. Những cánh trắng héo hắt rớt tả
tơi trên bàn thờ không mấy ai buồn dọn quét chăm sóc.
Lâu lắm, người ta mới thấy bóng một sư nữ gầy gò
xanh xao ngoài năm mươi tuổi ngồi bên hông chùa, uể oải cầm chiếc dao
cùn chặt những cành dương khô rớt trên nền đất và bó thành từng bó nhỏ.
Ni cô ngồi dưới bóng nắng loang lổ đỏ, khoác chiếc áo cà sa màu cà. Hình
như bà cố tìm vài mảnh nắng rớt nhiều nhất trên nền đất để hóng nắng.
Giữa màu lá xanh bao quanh da mặt, bà càng thêm nhợt nhạt. Ðôi mắt trũng
sâu nhiều, tròng trắng nhìn bâng quơ khi cánh tay gầy guộc khô khan của
bà đưa chiếc dao chành lên xuống vài lượt, và giọng ho húng hắng được
đè nén làm bà run rẩy.
Bà đã đến tu ngôi chùa này hồi hai gò má còn hồng
và nụ cười tươi sáng ẩn một chút ngổ ngáo. Nay hàm răng trắng xa xưa đã
rụng mất vài ba cái và đóng bợn vàng ối.
Ông yết ma vốn người bán nam bán nữ, cao to mập
trắng hếu và có đôi mắt lém lỉnh. Hình như ông yết ma này gọi ni cô bằng
dì họ. Ông này cùng theo bà đến chùa hồi mười tuổi và bây giờ ông đã
quá ba mươi. Ông có tật lãng tai, mỗi khi ni cô nói với ông điều gì, bà
phải lấy tàn hơi gào thét. Ông cứ vểnh tai ra, nét mặt ngơ ngác như
người đi lạc vào một thế giới xa lạ thiếu âm thanh. Ni cô mỗi lần muốn
đàm đạo với ông cháu quí phải nặng hơi mỏi cổ nên bà lười biếng ít muốn
nói chuyện với ông ta lâu.
Ngoài hai người, còn có một chú tiểu đầu để chởm
với thẻo tóc dài vắt qua vành tai. Chú tiểu này vừa giúp đỡ ni cô như
một tiểu đồng, vừa làm thông ngôn khi ni cô muốn nói chuyện dài với ông
yết ma. Chú tiểu có vẻ nhẫn nhục và cam chịu. Chú sống thui thủi giữa
hai người lớn, mỗi người có một thế giới bưng bít. Họ chỉ hợp nhau vào
những buổi tụng niệm, còn ngoài những giờ lo cho Ðấng Từ Bi, họ mỗi
người mỗi việc tưởng chừng như sự hiện diện của nhau thật là mờ nhạt
thừa thãi. Chú tiểu lo phần cơm nước. Những bữa cơm dọn với rau muối mè,
tương hột đơn sơ, chú tiểu có thể quán xuyến chu tất. Mỗi buổi sáng,
chú ra sau chùa bứt những đọt mùng tơi, hái những bông mướp vàng ối còn
thơm mật, nhổ vài nắm rau đắng mọc dọc mé đê đem vào luộc.
Ông yết ma ngoài mấy buổi tụng kinh, gõ mõ, còn
có bổn phận vun quét rườn rau, cưng dưỡng mấy dây bầu và giàn mướp sai
trái. Cái quá khứ không tì vết của ông yết ma – ông sống xa người trần
tục không tiếp nhận cuộc sống đầy rẫy bon chen – khiến ông chỉ hiểu cuộc
đời lờ mờ ngoài mái chùa. Cơm rau mỗi ngày hai bữa, ông làm việc hùng
hục ngoài vườn rau và ngủ li bì vào những giờ rảnh rỗi. Những giấc ngủ
êm đềm khoan khoái nuôi dưỡng thân xác ông mỗi ngày một to béo đẫy đà.
Vẻ mặt ông cười cợt dễ dãi và phẳng phiu như tâm hồn ông. Ði tu từ lúc
còn bé, ông sống kham khổ cũng đã quen. Ông cảm thấy yên phận để dọn
mình mai sau về với Phật Tổ, dẫu làm con chuột uống dầu tại chùa Tây
Phương cũng cam. Ðầu óc ông tiêm nhiễm giáo lý một cách lờ mờ, cuộc sống
trong kinh kệ chưa in rõ vào đầu óc ông. Ông còn mơ ước gì hơn; vả lại,
ông không có thì giờ để nghỉ ngơi suy ngẫm gì ngoài những thủ tục đọc
kinh trồng rau. Công việc nhà chùa chiếm hết ngày tháng. Ông dạy chú
tiểu học kinh và cách tụng kinh. Chú ấy cũng là người để cho ông ta tâm
sự về sự tiến triển của mấy dây bầu, của nụ hoa mướp có mòi thành quả.
Chỉ có vậy thôi, thế mà ông ta sống lây lất hơn hai mươi năm qua đến
không ngờ. Ngày đó, ông theo ni cô Diệu Tâm đến ngôi chùa này giữ vai
trò một tiểu đồng, Lúc đó còn sư cụ và ni cô thì mới ngoài ba mươi tuổi,
dung nhan còn mặn mòi sắc lẻm. Ðến khi sư cụ qua đời và được mai táng
trong cái tháp trước sân chùa, ni cô Diệu Tâm mới lo quán xuyến ngôi
chùa này.
Những ngày rằm hoặc những ngày lễ Phật, chỉ vài
ba thiện nam tín nữ đến dâng hương vội vã. Hình như họ nghĩ rằng chùa
nào đông đúc tấp nập, Phật Trời mới có mặt thường xuyên. Chớ chỗ buồn bã
như vầy, chắc Phật Trời cũng lười lui tới. Ông yết ma cảm thấy phơi
phới trong cuộc sống trống vắng quạnh hiu. Những lúc đám khách thập
phương này chiếu cố chùa, ông có cảm tưởng như họ đến quấy rầy sự yên
tĩnh của ông. Nhưng ông phải giữ đúng quy luật nhà chùa là cửa thiền lúc
nào cũng mở rộng. Ông biết láng máng về quá khứ của ni cô ngày xưa lúc
bà mới hai mươi tuổi, bà là vợ kế của nhà phú hộ trong làng Ðạo Ngạn
thuộc tỉnh Mỹ Tho. Ruộng vườn của bà cò bay thẳng cánh. Thủơ đó, tất cả
phụ nữ miền Nam chưa hề trang điểm, thế mà bà đã biết dùng phấn nụ do
các công chúa của triều đình Huế sai tì nữ đem bán. Trước khi đánh phấn,
bà dùng chỉ đánh cho săn lại rồi lăn lên da, nhổ sạch những sợi lông
măng để cho da mặt tiếp nhận phấn dễ dàng. Ðoạn bà dùng phấn nụ bôi lên
mặt, lấy giấy hồng đơn thấm nước đắp lên mặt má. Bà nhai trầu cho đôi
môi nhuộm đỏ.
Thật ra bà vốn là đào hát bộ, tên Năm Thàng. Ông
phú hộ có tính phong lưu tao nhã. Ðời ông chỉ có việc lấy hát xướng làm
tiêu khiển. Bất kỳ gánh hát nào có bà, ông cũng ngồi ghe bầu theo coi
cho bằng được. Ngồi ghế thượng hạng để cầm chầu, ông say sưa chiêm
ngưỡng tấm nhan sắc chim sa cá lặn của bà trong vai Phàn Lê Huê, Hồ
Nguyệt Cô, hoặc Lưu Kim Ðính. Người bạn theo hầu kiêm luôn anh đầu bếp
giỏi, và tối đến, được theo chủ xem hát. Người phu trạo đã bắt đầu ghiền
cuộc sống rày đây mai đó. Cũng bao nhiêu tuồng hát đó mà nhà phú hộ nọ
vẫn coi hoài không chán mắt. Ðối với ông, cô Năm Thàng từ cánh gà tuông
ra làm đổi mới cả sân khấu.
Hai năm xuôi ngược mỏi mê, ông cố gắng điều đình
với ông bầu gánh chuộc cô Năm Thàng bằng mười mẫu đất, đem về làm vợ kế.
Muốn thoát khỏi cảnh đời rày đây mai đó, cô Năm Thàng bằng lòng với
ngôi vợ thứ hai do sự đồng ý cưới hỏi rỡ ràng của bà phú hộ. Cuộc sống
huyên náo bỗng dừng lại làm cô Năm ngỡ ngàng xa lạ. Sự giàu sang và
chiều đãi, nâng như nâng trứng hứng như hứng hoa của chồng không bao lâu
làm cô thêm nhớ lại cuộc đời sống cũ. Cô nhớ sân khấu, nhớ đời sống
lang thang trên những chiếc nghe chài xê dịch từ làng này sang tỉnh
khác. Cuộc sống tập thể tuy quấy nhiễu cô thường xuyên, nhưng đem lại
cho tâm hồn cô những đổi mới. Cô say những vai trò nữ tướng, công chúa,
bà hoàng… để bôi xóa tạm bợ trong vài tiếng đồng hồ đời sống nghèo đói
cơ cực của mình. Một cô đào hát tên tuổi chưa được mấy mà đã làm bà phú
hộ, có kẻ hầu người hạ. Thế mà cảnh giàu có vẫn không quyến rũ được cô
lâu, không đủ quyền lực làm cô quên hẳn quá khứ.
Ni cô Diệu Tâm trở mình thức giấc. Bà lần mò ra
chánh điện để kịp gác công phu. Trong im vắng hoàn toàn, ni cô nghe rõ
tiếng chuột bọ chạy rột rẹt và tiếng thằn lằn trên kèo nhà chắc lưỡi.
Bên ngoài, ếch nhái dưới ao con trỗi giọng uênh oang át cả tiếng dế
trong bụi ô rô nhọn hoắt. Ni cô bước ngang phòng ông yết ma. Tiếng ngáy
từ trong buồng vọng ra ào ạt, đều đặn. Bỗng giọng mớ ú ớ vang lên:
- Ê ! mấy thằng chăn trâu, bây bẻ trộm bầu của người ta hả? Bớ Phật Kim Cang, Phật La Hán vặn họng nó cho rồi. Bớ Hộ Pháp.
Ni cô mỉm cười, bỏ xuống nhà sau rửa mặt. Nước
mưa chứa trong hàng mái đầm sau hậu liêu mát lạnh lôi bà ra khỏi cơn
ngầy ngật buồn ngủ. Bà trở lên chánh điện vặn to ngọn đèn và thành kính
cầm dùi dộng vào cái đỉnh đồng chung. Tiếng chuông ngân dài như réo gọi
ông yết ma ngủ muộn và nhắc cho chú tiểu đến lúc tụng kinh công phu. Sau
đó, từ lò cạo heo, tiếng heo bị thọc huyết eng éc bên kia sông, cách
chùa hơn năm trăm thước. Tiếng kêu cứu thê thảm của mấy con heo vắn số
nối đuôi tiếng công phu. Phía sau chùa là lò rèn. Tiếng nổ lách tách của
đám than vừa rực cháy nghe rất vui tai. Hai ống bể khò khè như tiếng
ngáy ngủ của loài trâu nước.
Chú tiểu dụi mắt đi ra đỡ lấy dùi chuông thay cho
ni cô. Bà ngồi âm thầm giữa chánh điện hai bàn tay gầy lần tràng chuỗi
hạt hổ phách, ni cô tụng hết tuần kinh lui vào trai phòng bên tách trà
nhạt còn bốc khói. Bà ôn lại ngày bà còn là một cô đào chánh đã làm say
mê biết bao nhiêu vương tôn công tử. Ông phú hộ Thọ đã chia gần nửa số
gia sản của ông để đổi cô. Rồi cô bỏ sân khấu về sống trong một ngôi nhà
nền đúc cao tới ngực có hàng chục người hầu hạ. Mỗi lần cô giam mình
sốt mẩy, thầy lang được rước về tận nhà và ở lại đó cho đến khi cô khỏi
hẳn. Cô mê món ếch bắc thảo chưng đường phèn. Người tớ gái đem cục mỡ
gần thận ếch để vào một cái thố vẽ bát tiên và cho đường phèn vào, chưng
cách thủy. Cục mỡ ếch nở to bằng cái chén trong như pha lê, thơm ngọt
ngào rồi đặt chiếc thố sứ vào cái mâm bằng gỗ quí. Trong lúc cô dùng ếch
bắc thảo, hai đứa con gái đứng hầu quạt hai bên. Cuộc sống lắm kẻ nuông
người chiều đó níu kéo cô được vài ba tháng. Một hôm đoàn hát Cẩm Ðuờng
Ban có dịp trở lại làng Ðạo Ngạn, cô Năm Thàng cảm thấy có cái gì xót
xa ray rứt không yên thúc giục cô, nhứt là khi tiếng chiêng trống và
tiếng phèng la nổi lên inh ỏi ở đầu đình. Cô Năm bồn chồn không thể tả,
thế rồi đêm hôm sau đó, lúc ông phú hộ yên giấc cô lần mò bỏ trốn theo
đoàn hát và tiếp tục nghiệp dĩ. Phải chăng cô muốn thay đổi cái không
khí nhờn nhợt âm thầm trôi nổi bên cạnh ông chồng chỉ có lòng sủng ái,
nhưng tình yêu cô cho ông còn lờ mờ chưa thắng nổi tiếng trống chầu.
Khi ông phú hộ biết cô đã trốn về đoàn hát, lập
tức ông xuống ghe bầu cùng với người phu trạo đi theo. Cuộc săn đuổi
gian nan không làm ông thất vọng. Ông tin tưởng sự đi theo vừa giúp ông
tiêu dao ngày tháng, vừa có dịp săn sóc cô và mong rằng ngày nào đó, cô
Năm sẽ hồi tâm quay trở về. Mãi cho tới ba năm sau, ông vẫn vừa đi theo
cô Năm Thàng vừa tập soạn tuồng hát. Ông đã gởi gắm tâm sự, tình ý vào
bản Hát Nam, Hát Khách và Hát Văn. Ông để hết tâm trí vào các tác phẩm
thai nghén suốt mấy năm liền và sau đó được đưa lên sân khấu để cho cô
Năm thủ diễn. Kỳ lạ, sau khi diễn xong tuồng hát của chồng, cô Năm Thàng
ôm ông phú hộ Thọ khóc hu hu rồi cởi áo mũ giáp trả lại sân khấu và hai
vợ chồng đưa nhau về chốn cũ sống lại cuộc đời cố định. Cô Năm mới tìm
thấy tình yêu muộn màng nhưng có một sức mạnh lôi cô ra khỏi ánh đèn sân
khấu vĩnh viễn, bỏ hẳn cuộc sống nay miếu này mốt đình nọ. Chỉ một năm
sau, cô sanh được một đứa con trai kháu khỉnh. Ðứa con trai đó nối dõi
tông đường của ông phú hộ trong khi bấy lâu nay ông cứ ngỡ là mình tuyệt
tự. Ông mừng đến sa nước mắt khi đứa con trai độc nhất của ông càng lớn
càng giống những nét thanh tú trên gương mặt của ông và cô Năm.
Ông phú hộ toan tính biết bao nhiêu về dự định
tương lai cho đứa bé. Nhưng ông đột nhiên chết bất thần vì một tiếng sét
long trời xẹt vào nhà làm đổ cả tủ kiếng và giết ông nhanh chóng. Cái
chết tức tưởi đó làm cho dân làng xầm xì bàn tán là ông ăn ở thiếu phúc
đức nên trời sai Thiên Lôi xuống giết gấp rút như vậy.
Từ đó, cô Năm đoạn tuyệt cuộc đời cũ ngay trong ý
nghĩ và tận tụy chăm sóc đứa con để đền ơn đáp nghĩa với người vừa là
tri kỷ vừa là bạn chung tình đã cho cô một niềm tin yêu bao la. Nhất
định cô chẳng đời nào cho con cô nối nghiệp cô. Cuộc đời hát xướng bị
người đời cho là vô loài. Cô cũng chẳng mơ con cô giàu có như cha nó chỉ
ước ao sau này nó sẽ có nhiều bằng cấp học hành đỗ đạt. Cô ẩn nhẫn sống
nuôi con, mặc dầu lúc ông phú hộ vừa mới chết, còn biết bao nhiêu người
gấm ghé được lấy cô, nhưng cô quyết không buồn ngó đến họ.
Ðến ngày giỗ chồng, đợi vào lúc nửa đêm, cô Năm
Thàng hóa trang, mặc áo giáp đóng vai Ðoàn Hồng Ngọc oai phong lẫm liệt
cầm dao múa trước bàn thờ làm như ông phú hộ đang ngồi trên ấy thưởng
thức tài nghệ siêu phàm của cô. Ðường đao bay vun vút quấn lấy người cô.
Trong im vắng, cô cất tiếng hát nho nhỏ những bài hát trong những vai
tuồng mà ngày xưa ông phú hộ đã dày công biên soạn. Sau những đường đao
bay như rồng lộn, cô Năm đúng thẳng người nhìn đăm đăm lên bức ảnh ông
phú hộ và hai hàng nước mắt chảy dài trên đôi má.
Ðứa con của cô được một năm thì bị một cơn sốt dữ
mà tất cả danh y đều bó tay đầu hàng. Cô Năm tê điếng trong niềm tuyệt
vọng. Ðã bao lần ý nghĩ tự sát chập chờn qua tâm não cô. Ba lần tự tử
bằng ba cách: cắt gân máu, uống dầu nóng, treo cổ được phát giác ngay.
Cô lần tính lại đã quá hai mươi năm, nỗi đau khổ
và bất hạnh xa cũ đã bắt đầu mờ nhạt. Những việc nhà chùa làm cô bận rộn
suốt năm bôi xóa dần những nỗi buồn thảm, tưởng chừng vẫn rỉ rả hành
tội cô trong khoảng đời còn lại.
***
Nắng đã lên từ chân vườn, sau chùa, vài ba đứa
mục đồng đang nghêu ngao mấy bản Kim Tiền. Nắng tuôn ánh sáng hình rẽ
quạt trên mặt đất. Ni cô Diệu Tâm lục đục ở trú phòng. Những cây tre non
được vót từng cọng nhỏ bằng cây tăm nhang bày đầy trong cái nia. Ni cô
khệ nệ bưng nồi nước cơm từ bên bếp đem lên để kế bên nia tăm tre cắt
dài khoảng ba tấc. Ni cô dùng những loài lá có mùi thơm như lá quao, lá
ngũ trảo, lá bưởi phơi khô rồi giã nhỏ xay lấy bột đựng trong mấy chiếc
thau đầy ắp. Chú tiểu ngồi bên cạnh rây lại lần nữa phần bột mịn, thơm
ngát, cho vào cái chậu tráng men sứ trắng vẽ hoa hồng đỏ. Ni cô bỏ những
cây tre chẻ nhỏ vào một ống tre cao độ hai tấc đựng nước cơm gạo mới
đặc quánh như hồ nhúng ướt rồi mang ra lăn những cây tre đó vào chậu bột
lá mịn. Hồ trên thân cây tre chẻ nhuyễn quyến lấy bụi lá thơm và những
cây nhang này được đem đi phơi nắng.
Tất cả những thức ăn lẫn hương hoa cúng kiếng đều
do một tay ni cô làm ra. Xài không hết, bà mang ra chợ bán lấy tiền bỏ
vào quỹ nhà chùa. Ðặc biệt bà có tài làm tương ta. Bà lựa nếp đem xôi
rồi bỏ vào nia ủ bằng lá chanh hay lá ngấy độ ba ngày cho nếp lên men
rồi thắng đường cho chút muối, đổ vào nếp làm tương ta. Những món hàng
do nhà chùa sản xuất sẽ nhờ chú tiểu đem ra ngồi chợ bán lẻ. Công việc
bề bộn đó chiếm cả ngày, ni cô Diệu Tâm say sưa, có khi quên cả việc ăn
uống. Mãi đến chập choạng tối, lúc bao tử đòi hỏi gấp rút, bà vào nhà
bếp xới tô cơm nguội ăn với chút tương ta. Ăn uống thiếu thốn lâu ngày
làm thân thể bà gầy gò và những cơn ho húng hắng xảy ra thường xuyên.
Nhưng bà không để tâm đến và cơn bịnh cũng lây lất trôi qua khi ông yết
ma chưng cho bà chín lá chanh với chút đường phèn bưng lên cho bà uống.
Món thuốc ho không tốn kém này cũng làm bớt cơn đau ngực và bà tiếp tục
lây lất với cơn bịnh.
Diệu Tâm cảm thấy bứt rứt nơi ngực. Hình như có
một bàn tay nắm lấy trái tim, bà ngột ngạt tưởng chừng trai phòng này
thiếu không khí. Bà gượng ngồi dậy tựa lưng vào thành giường một lúc rồi
cố gắng đứng dậy đẩy nhẹ cánh cửa sổ. Ánh nắng túa vào khe cửa ảm đạm
rớt trên một lõm giường và lác đác vài mảnh vuông trên nền gạch tàu.
Diệu Tâm lần dò ra ngoài để tìm chút thoáng khí. Ni cô lầm lũi bước ra
ngồi tựa lưng bên tháp sư cụ và ngước mặt nhìn trời. Cơn lạnh tiết ra từ
trong lá, từ ao sen làm bà rờn rợn. Cơn ho tiếp tục và ni cô cảm thấy
hình như chiếc tháp muốn xiêu đổ và mặt trời túa ra nhiều vành sáng nhảy
múa trước mắt. Diệu Tâm bám chặt lấy thềm cửa tháp và cơn buồn nôn hối
hả dâng lên, ni cô chỉ còn thấy cảnh vật đảo lộn, ánh sáng và bóng tối
xoay tít, và nơi ngực như có cả khối tháp đè lên đó. Tiếng chim vụt tắt
ngỏm đâu đây và cơn gió rào trên ngọn dương ngừng lại.
Ni cô bừng mắt nghe tiếng nói lào xào văng vẳng
đâu đây. Ni cô nhướng đôi mắt còn chút ít thần sắc nhìn quanh trai
phòng. Chú tiểu túc trực bên giường mừng rỡ hỏi dồn:
- Dạ thưa ni cô cảm thấy đỡ chưa?
Bà lặng lẽ gật đầu và muốn ngồi dậy. Chú tiểu
hiểu ý đến đỡ bà lên tựa lưng vào thành giường. Bỗng cửa trai phòng vụt
mở. Diệu Tâm nhếch mép cười tiếp nhận sự có mặt của đứa cháu dâu và cô
em họ đến đúng lúc bà thấy cơn bịnh này không hy vọng lành. Ðứa cháu dâu
gọi bà bằng cô chuyên nghề sống với nghề cờ gian bạc lận và nghề cho
vay đoạt nợ. Nghề nghiệp nàng đến mức tuyệt xảo. Riêng cô em họ cùng đi
theo cô cháu dâu đến thăm bà là một tay từng nhổ râu ông huyện này, cạo
đầu ông phủ kia. Cô em họ có tấm nhan sắc cũng ưa nhìn thôi, nhưng cô có
biệt tài hễ cập với ông nào thì nạn nhân tình ái của cô phải tán gia
bại sản một cách nhanh chóng và êm thắm. Hai người đàn bà thân thích này
thường lui tới cửa thiền hầu sám hối để chuộc tội. Họ thích thân thiện
với bà có lẽ nghĩ rằng khi Diệu Tâm đắc đạo để về chầu Ðấng Từ Bi sẽ với
tay níu họ theo lên cõi Niết Bàn. Vì mặc cảm tội lỗi nên họ càng thích
đi chùa dâng hương đem lễ lộc hòng hối lộ Trời Phật cho giải bớt những
oan khiên mà ở trần gian họ đã làm, đang làm và tiếp tục làm nữa…. Càng
thấy họ đi chùa là phải hiểu rằng họ vừa làm được một cái áp phe. Khi có
nhiều tiền, họ lại vào chùa thành khẩn hối lỗi, nhưng khi bước ra khỏi
chánh điện thì họ lại quên tuốt.
Ni cô mệt nhọc gắng gượng trả lời họ vài ba câu
hỏi thăm sức khỏe. Rồi không còn ngồi được nữa, bà nằm rũ xuống. Cô em
họ đề nghị ông yết ma nên tụng kinh cho Diệu Tâm để nếu như bà có phải
về nơi cực lạc cũng sớm được nhẹ nhàng hồn phách.
Ni cô nghe trong người rã rời từng khớp xương. Bà
cố mở mắt nhìn ánh đèn vàng vọt đặt trên chiếc bàn cạnh bàn nước. Cổ
họng bà khô đắng và lạt lẽo. Ni cô hé mắt nhìn cô em họ đang ngồi bên
cạnh và cô cháu dâu đang lây quây rót nước từ trong vỏ bình vào tách
định bưng lại. Ni cô khoác tay tỏ ý không cần uống nước. Bà đã ăn chay
ròng rã hơn hai mươi năm quá đạm bạc nên thân thể bà thiếu cả chất đạm.
Bà làm việc quần quật, suốt ngày. Không biết bà
tìm cách quên ẩn tình hay để tăng ngân quỹ nhà chùa. Người ta thấy ni cô
Diệu Tâm không sống cho mình nữa, kể từ khi bà bước vào chùa này. Bà
sống kham khổ, nhẫn nhục và chịu đựng. Tiền công quỹ nhà chùa được đem
ra bố thí cho những người tàn tật nghèo khổ. Bà ăn uống bất thường và
coi việc ẩm thực là điều phụ thuộc. Chỉ cần một chén tương và một nhúm
rau chấm tương cũng rồi một bữa. Từ một tháng nay, bà không ăn uống được
như thường nhật, mỗi khi ăn xong, bà đều mửa thốc mửa tháo ra, đến cả
thuốc men cũng không giữ được trong bao tử. Họ hàng hay được tin bà thọ
trọng bịnh cho mời biết bao danh y đến cứu chữa. Phần linh hồn thì do
ông yết ma và một số sư sãi các chùa lân cận đến tụng niệm siêu độ.
Thân xác bà mỏi mòn trong giấc hôn mê chập chờn,
bà nghe tiếng tụng niệm ngoài chánh điện. Trong bóng tối mù mờ, loáng
thoáng có tiếng muỗi vo ve, đột nhiên ni cô Diệu Tâm cảm thấy miệng mình
lạt quá, lạt kinh khủng. Phải chi có một chút nước tương để bà nếm thử.
Trí óc của bà dán chặt vào ý nghĩ lưỡi bà khô đi, đồng thời nước dãi
tuôn ra đầy miệng. Thế rồi ý nghĩ của bà trôi xa hơn, nước tàu vị yểu,
rồi nước mắm. Cơ thể bà vụt bùng lên. Nước mắm! Nước mắm! ni cô Diệu Tâm
nuốt ực nước miếng. Một nỗi xót xa làm nước mắt bà ướt đẫm. Có cái gì
chống đối trong từng thớ thịt, khớp xương của bà.
Bà vụt nghĩ, nếu có một muỗng nước mắm chui vào
bao tử bà thì có lẽ những chấn động, phản đối trong cái cơ thể mỏi mòn
sinh lực của bà sẽ dịu xuống, và muỗng nước mắm sẽ đem lại cho bà sự
khỏe khoắn để bà ngủ một giấc thật ngon và ngày mai bà sẽ tiếp tục sinh
hoạt lại như cũ dưới mái chùa này.
- Nước mắm! Muỗng nước mắm!
Ni cô hoàn toàn quên mất cái đời sống hiện tại ở
trong chùa, quên cả mấy mươi năm tu hành khổ hạnh. Bà rơi trong một ý
thức mù mờ chỉ có hình bóng muỗng nước mắm bằng sứ trắng chứa một thứ
nước vàng và trong suốt như nước trà. Kê miệng mà nếm thử thì biết. Ni
cô Diệu Tâm co rúm lại, thở hổn hển. Ba tiếng muỗng nước mắm như ba nhát
búa đập vào đầu óc bà làm bà lảo đảo.
Ngoài hậu liêu, hình như trời đã chiều. Mùi thuốc bắc sắc trong siêu ngai ngái bay lên làm bà có cảm tưởng mình sắp nghẹt thở.
Bà phải uống một muỗng nước mắm. Ngày mai dầu có
phải đọc kinh sám hối, bà cũng không màng. Bà tin chắc rằng dầu đọc kinh
cứu khổ cứu nạn với Bạch Y Quan Thế Âm Bồ Tát cũng chưa chắc mầu nhiệm
bằng một muỗng nước mắm. Nước mắm sẽ là một món thuốc tiên làm cho cây
khô trổ bông. Cố gắng lấy hết tàn hơi, bà thều thào gọi chú tiểu kiếm
cho bà một muỗng nước mắm. Tất cả những người có mặt bên giường đều ngạc
nhiên lẫn hốt hoảng.
Diệu Tâm lặp đi lặp lại mấy lần:
- Mô Phật! Cho tôi muỗng nước mắm, tôi uống vào sẽ hết bịnh liền.
Tiếng kêu gọi như một lời van vỉ, thê thảm. Hai
tay Diệu Tâm chìa ra tuyệt vọng. Chú tiểu bưng đến gần tách trà ướp sen
kề gần miệng. Ni cô khép chặt môi, lắc đầu phản đối:
- Tôi chỉ cần uống một chút nước mắm cho mặn môi.
Nói xong ni cô dìm hồn vào trong cơn đồng thiếp hai cánh tay còn xòe ra quờ quạng van xin.
Cô em họ bước ra trai phòng thỉ thầm:
- Rõ là ma đưa lối, quỉ dẫn đường. Hồi nào tới
giờ chỉ ăn chay lạt, đến lúc sắp chết lại đòi uống nước mắm. Tôi nhất
định chống lại lời ma quỉ xúi biểu, xui khiến chỉ phạm trai giới. Thà để
cho chỉ chết mà không mang tội với Trời Phật và không uổng công tu khổ
hạnh hai mươi mấy năm nay.
Nói đoạn bà xuống trú phòng ngồi nói chuyện áp
phe với cô cháu dâu, hoặc những thành quả bà đã thu đoạt được kể từ ngày
bà bước chân vào đời. Giọng bà oang oang uốn éo và những tràng cười nói
xôn xao vọng lên trên chánh điện. Ông yết ma với đôi mắt nhắm lại và
nét mặt phẳng phiu dễ dãi thường nhật nhuốm một chút lo âu. Không khí
nặng nề trùm xuống, nghẹt thở. Tiếng hét từ trai phòng vang lên. Ông lẹ
chân tông cửa vào vừa lúc chú tiểu định bước ra, vẻ mặt còn hốt hoảng.
Tất cả đứng im lặng quanh giường chờ đợi phút nghiêm trọng của ni cô
trong khi cô đang vật vã từng đợt với tử thần. Tiếng nói bà vụt sang
sảng như lúc còn ở trên sân khấu. Giọng nói trong trẻo tỉnh táo, nhưng
đôi mắt bà vẫn nhắm nghiền:
- Tôi mới biết thương mình mấy năm mình khổ công theo đuổi tôi, mình đặt tuồng hát cho tôi hát.
- Con ráng học cho đỗ đạt làm quan nghe con cưng của má.
- Tôi chỉ thích sắm vai Ðoàn Hồng Ngọc hơn làm Phàn Lê Huê. Mình thích tôi diễn vai nào nhất?
- Bớ này Tiết Giao! Ô này bạc tình lang! Mặt
chàng đẹp trai mà làm chi? Lời chàng ngọt ngào mà làm chi Cổ thiếp ngày
nay mất ngọc, thân thiếp bơ vơ.
Cả một quá khứ trôi nhanh lên ký ức bà rõ rệt và
nhanh như một đoạn phim quay hết tốc lực của nó. Bà độc thoại từ quãng
đời sân khấu đến quãng đời làm vợ ông phú hộ Thọ. Giọng bà sang sảng vụt
dừng lại và dưới ánh đèn hiu hắt, ni cô mở trừng trừng đôi mắt trắng
nhợt như cố thu nhận hình ảnh sau cùng của đời sống và ni cô quờ quạng
hai bàn tay trơ xương với lời van vỉ đứt nối:
- Hãy cứu tôi, cho tôi uống một muỗng nước mắm thôi.
Cô cháu dâu nhìn bà em họ:
- Mợ ơi! Mợ nhờ sư sãi đọc kinh trừ tà nghen. Cần nhứt là canh giữ đừng cho ai đem nước mắm lại.
Bà em họ tức mình:
- Ðể tôi đi đọc kinh cứu khổ. Hồi xưa Phật Thích
Ca gần đắc đạo thì ma vương tới phá. Còn cái chị này sắp về Tây Phương
tới nơi mà cũng chưa yên thân.
*Mời bạn đọc thêm một bài thơ của Tô Thùy Yên:
Chiều trên phá Tam Giang. Bài thơ đã được phổ nhạc bởi Trần Thiện Thanh,
khổ êm dịu nhất. Những nó còn hai khổ khác, mà ở đó nhà thơ-sĩ quan trẻ
Việt Nam Cộng Hòa Tô Thùy Yên đã nói về mình, về “kẻ địch” bên kia
chiến tuyến…
CHIẾU TRÊN PHÁ TAM GIANG
Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
(Ca dao)
1.
Chiếc trực thăng bay là mặt nước
Như cơn mộng nhanh
Phá Tam Giang, phá Tam Giang
Bờ bãi hỗn mang, dòng bát ngát
Cát hôn mê, nước miệt mài trôi
Ngó xuống cảm thương người lỡ bước
Trời nước mông mênh, thân nhỏ nhoi
Phá Tam Giang, phá Tam Giang
Nhớ câu ca dao sầu vạn cổ
Chiều giòn tan, nắng đọng nứt ran ran
Trời thơm nước, thơm cây, thơm xác rạ
Thơm cả thiết tha đời
Rào rào trận gió nhám mặt mũi
Rào rào trận buồn ngây chân tay
Ta ngó thấy ghe thuyền quần tụ
Từng đoàn như trẻ nhỏ ghê ma
Ta ngó thấy thuỳ dương gãy rủ
Từng cây như nỗi bất an già
Ta ngó thấy rào chà cản nước
Từng hàng như nỗ lực lao đao
Ta ngó thấy nhà cửa trốc nóc
Từng ngôi như mặt đất đang gào
Vì sao ngươi tới đây?
Hỡi gã cộng quân sốt rét, đói
Xích lời nguyền sinh Bắc, tử Nam
Vì sao ta tới đây?
Lòng xót xa, thân xác mỏi mòn
Dưới mắt người làm tên lính nguỵ
Ví dầu ngươi bắn rụng ta
Như tiếng hét
Xé hư không bặt im
Chuyện cũng thành vô ích
Ví dầu ngươi gục
Vì bom đạn bất dung
Thi thể chẳng ai thâu
Nào có chi đáng kể
Nghĩ cho cùng, nghĩ cho cùng
Ví dầu các việc ngươi làm, các việc ta làm
Có cùng gom góp lại
Mặt đất này đổi khác được bao nhiêu?
Ngươi há chẳng thấy sao
Phá Tam Giang, phá Tam Giang ngày rày đâu đã cạn?
Ta phá lên cười, ta phá lên cười
Khi tưởng tượng ngươi cùng ta gặp gỡ
Ở cõi âm nào ngươi vốn không tin
Hỏi nhau chơi thoả chút tính bông đùa:
Ngươi cùng ta ai thật sự hy sinh
Cho tổ quốc Việt Nam – một tổ quốc…?
Các việc ngươi làm
Ngươi tưởng chừng ghê gớm lắm
Các việc ta làm
Ta xét thấy chẳng ra chi
Nên ngươi hăng điên, còn ta ảm đạm
Khi cùng làm những việc như nhau
Ta tự hỏi vì sao
(Còn ngươi, có bao giờ ngươi tự hỏi?)
Và ta tự trả lời
(Có bao giờ ngươi tự trả lời?)
Chúng ta khác nào cánh quạt phi cơ
Phải quạt, phải quạt
Chỉ vì nó phải quạt
Ta thương ta yếu hèn
Ta thương ngươi khờ khạo
Nên cả hai cùng cam phận quay cuồng
Nên cả hai cùng mắc đường Lịch Sử
Cùng mê sa một con đĩ thập thành
Chiều trên phá Tam Giang rộn ràng tiếng chiến trận
Chiều trên phá Tam Giang im lìm âm cảm thông
2.
Chiều trên phá Tam Giang
Anh sực nhớ em
Nhớ bất tận
Giờ này thương xá sắp đóng cửa
Người lao công quét dọn hành lang
Những tủ kính tối om
Giờ này thành phố chợt bùng lên
Để rồi tắt nghỉ sớm
(Sài Gòn nới rộng giờ giới nghiêm
Sài Gòn không còn buổi tối nữa)
Giờ này có thể trời đang nắng
Em rời thư viện đi rong chơi
Dưới đôi vòm cây ủ yên tĩnh
Viền dòng trời ngọc thạch len trôi
Nghĩ tới ngày thi tương lai thúc hối
Căn phòng cao ốc vàng võ ánh đèn
Quyển sách mở sâu đêm
Nghĩ tới người mẹ đăm chiêu, đứa em quái quỷ
Nghĩ tới đủ thứ chuyện tầm thường
Mà cô gái nào cũng nghĩ tới
Rồi nghĩ tới anh, nghĩ tới anh
Một cách tự nhiên và khốn khổ
Giờ này có thể trời đang mưa
Em đi nép hàng hiên sướt mướt
Nhìn bong bóng nước chạy trên hè
Như những đoá hoa nở gấp rút
Rồi có thể em vào một quán nước quen
Nơi chúng ta thường hẹn gặp
Buông tâm trí bập bềnh trên những đợt lao xao
Giữa những đám ghế bàn quạnh quẽ
Nghĩ tới anh, nghĩ tới anh
Cơn nghĩ tới không sao cầm giữ nổi
Như dòng lệ nào bất giác rơi tuôn
Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng
Của chiến tranh mà em không biết rõ
Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng
Một điều em sợ phải nghĩ tới
Giờ này thành phố chợt bùng lên
Chiều trên phá Tam Giang
Anh sực nhớ em
Nhớ bất tận
Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi
Rực chiếu bao nhiêu giấc mộng đua đòi
Như những mặt trời con thật dễ thương
Sẽ rơi rụng dọc đường lên dốc tuổi
Mỗi sáng trưa chiều tối đêm khuya
Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi
Coi chuyện đó như lần đi tuyệt tích
Trong nước trời lãng đãng nghìn trùng
Không nghe thấy cả tiếng mình độc thoại
Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi
Thấy trong lòng đời nở thật lẻ loi
Một cành mai nhị độ
Thấy tình yêu như vận hội tàn đời
Để xé mình khỏi ác mộng
Mà người đàn ông mê tưởng suốt thanh xuân
Ôi tình yêu, bằng chứng huy hoàng của thất bại!
3.
Chiều trên phá Tam Giang
Mày nhìn con nước xiết
Chảy băng bờ bãi ngổn ngang câm
Nghĩ tới, nghĩ tới những công trình mày có thể hoàn thành
Mà rồi mày bỏ dở
Nghĩ tới kiếp người đang lỡ độ đường
Trên mịt mùng nghi hoặc
Nghĩ tới thanh xuân mất tích tự đời nào
Còn lưu hậu chua cay hoài vọng
Nghĩ tới khu vườn ẩn cư cỏ cây khuất lấp
Căn nhà ma ám chầy ngày gió thổi miên man
Đụt tuổi già bình an vô tích sự
Như lau lách bờm sờm trên mặt sông nhăn
Cùng cái chết
Cái chết lâu như nỗi héo hon dần
Làm chính mình bực bội
Gió muôn ngàn năm thổi lẽ tuần hoàn
Cho cỏ cây thay đời đổi kiếp
Và mày kinh sợ nghe nhắc điều vượt sức bình sinh
Bởi mày không đủ dạn dày trình diễn tới lui cơn thất chí
Như gã hề cuồng mưu sinh giữa chốn đông người
Với từng ấy tấn tuồng bần tiện
Rút ra từ lịch sử u mê
Gió thổi thêm đi, gió thổi thêm đi
Cho cỏ cây mau chết, mau hồi sinh
Mày mặc kệ
Chiều trên phá Tam Giang
Có gã hề cuồng buông tiếng cười lạnh rợn
Khiến bầy ác thú mà lịch sử sanh cầm cũng chợt hãi hùng
Dớn dác ngó
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét