Từ phẫu
thuật, xạ trị, hóa trị, giới y học đã tiến đến sử dụng liệu pháp kháng
sinh mạch - một phát minh có tính cách mạng trong lĩnh vực điều trị ung
thư.
Ở Việt Nam, ung thư phổi đứng hàng thứ hai sau ung thư gan ở cả
hai giới nam và nữ. Ước tính đến năm 2020, số ca mắc mới ung thư phổi cả
hai giới tại Việt Nam là hơn 34.000 ca. Ung thư phổi giai đoạn sớm
thường không có triệu chứng rõ rệt nên đa số bệnh nhân đều được chẩn
đoán ở giai đoạn muộn với tỷ lệ tử vong cao.
Tiến sĩ Vũ Văn Vũ, Trưởng Khoa Nội 1, Bệnh viện Ung bướu TP HCM cho
biết ung thư phổi hiện là một trong những loại ung thư hàng đầu về số ca
mắc mới và tử vong hàng năm. Ung thư phổi được chia thành hai nhóm lớn
là ung thư phổi tế bào nhỏ và ung thư phổi không tế bào nhỏ. Trong đó
ung thư phổi tế bào nhỏ tuy chỉ chiếm khoảng 20% nhưng là loại rất ác
tính, diễn tiến nhanh, di căn xa, nhiều và di căn sớm. Do vậy phương
pháp điều trị chủ yếu là hoá trị.
80% ung thư phổi còn lại là các loại có những đặc điểm mô học khác nhau
như ung thư phổi tế bào vảy, ung thư phổi biểu mô tuyến, ung thư phổi
tế bào lớn. Nhìn chung các loại ung thư này thường có diễn tiến tương
đối chậm, tuần tự, khu trú tại chỗ, tại vùng nên có thể áp dụng nhiều
biện pháp điều trị khác nhau như phẫu trị, xạ trị, hoá trị cũng như liệu
pháp điều trị nhắm trúng đích.
Ảnh minh họa: sierranevadacancer
|
Theo tiến sĩ Vũ, trước đây y học điều trị ung thư bằng những biện
pháp quy ước, nghĩa là khối u ở đâu thì mổ cắt khối u ở đó. Khoảng 20
năm gần đây, trường hợp ung thư lan tràn quá nhiều, gọi tắt là giai đoạn
tiến xa hoặc di căn thì áp dụng biện pháp điều trị toàn thân. Trong một
thời gian dài người ta có những loại thuốc dựa trên một loạt các cơ chế
tác động gây độc trực tiếp lên tế bào. Đó chính là liệu pháp hoá trị
gây độc tế bào.
Tiến thêm một bước, dựa vào sự hiểu biết về bệnh học phân tử, hiểu cặn
kẽ những biến đổi xảy ra ở mức độ phân tử, làm cho một tế bào bình
thường phát triển thành một tế bào ung thư và việc điều trị sẽ chỉ nhắm
vào phân tử biến đổi đó. Phân tử này được gọi là đích phân tử và liệu
pháp điều trị này gọi là liệu pháp điều trị nhắm trúng đích. Liệu pháp
nhắm trúng đích đã mở ra một kỷ nguyên hứa hẹn trong điều trị ung thư
nói chung và trong đó có ung thư phổi.
Gần đây, đối với loại ung thư phổi không tế bào nhỏ người ta đã biết
một số điều và có một số khám phá nổi bật. Thứ nhất là hiện tượng tăng
sinh mạch ở các khối u. Tất cả tế bào cũng như các sinh vật muốn sống,
muốn tồn tại và phát triển đều cần phải có nguồn nuôi dưỡng. Tế bào ung
thư được nuôi dưỡng qua hiện tượng thẩm thấu để hấp thu oxy và các chất
dinh dưỡng như đường, đạm, mỡ… thông qua con đường chuyên chở là các
mạch máu. Cho nên một trong các đích điều trị là sự sinh mạch máu của
khối u. Thay vì cắt khối u đi, thay vì chiếu xạ hay đánh thuốc độc tế
bào khối u bằng các tác nhân hóa trị gây độc tế bào thì có thể áp dụng
các biện pháp điều trị nhằm khống chế, ngăn chặn, kiểm soát không cho
khối u tiếp tục được nuôi dưỡng bằng cách ức chế sự sinh mạch của khối
u. Từ đó ức chế sự tăng trưởng, phát triển và di căn của khối u.
Thứ hai, sự tăng trưởng khối u phải nhờ các mệnh lệnh tăng trưởng, hay
chính xác gọi là tín hiệu tăng trưởng. Hiện nay người ta đã biết rằng tế
bào ung thư trên một số đối tượng bệnh nhân nào đó, như là ung thư phổi
biểu mô tuyến hay ung thư phổi trên người không hút thuốc thì có liên
quan đến đột biến của một phân tử hay gen di truyền, làm phát sinh quá
mức các tín hiệu gây tăng trưởng, đưa đến sự tăng sinh và phát triển của
các tế bào ung thư. Dựa vào đó, người ta có thể dùng thuốc để ngăn chặn
con đường tín hiệu gây tăng trưởng quá mức này để ức chế sự tăng sinh,
phát triển của các tế bào ung thư.
Tiến sĩ Vũ nhấn mạnh, một trong những điều mà người ta hay ngộ nhận là
điều trị hóa chất làm xấu đi chất lượng sống của bệnh nhân. Thực ra là
chất lượng sống của bệnh nhân thường không thể tăng nếu bạn không kiểm
soát được sự tăng trưởng của khối u. Vậy khi một liệu pháp điều trị ung
thư nào đó có hiệu quả, tức là liệu pháp này làm cho khối u thu nhỏ
nhanh hơn, nhiều hơn và thời gian dài hơn, giúp bệnh nhân được hưởng lợi
và giảm triệu chứng bệnh. Đối với ung thư phổi thì bệnh nhân sẽ đỡ bị
khó thở, giảm đau ngực, giảm ho ra máu, giảm sốt, ăn được và tổng trạng
bệnh nhân đỡ hơn. Tác dụng phụ của hoá trị kết hợp liệu pháp kháng sinh
mạch không nhiều hơn hoá trị đơn thuần.
"Tất cả các điều trước kia người ta làm là chỉ chăm chú đến chuyện bệnh
nhân sống thêm được bao nhiêu ngày, sống ổn định hoàn toàn hay là sống
vẫn còn có bệnh, sau này người ta có khái niệm khác hơn, đó là bệnh nhân
sống những ngày tốt đẹp không có các triệu chứng. Đó chính là khái niệm
chất lượng cuộc sống của người bệnh ung thư", tiến sĩ Vũ chia sẻ.
Ung thư giai đoạn sớm, ung thư mới phát thường không có bất cứ triệu
chứng gì. Nhiều người nghĩ rằng khi nào ho, đau ngực, ho ra máu, nổi
hạch mới khám. Tất cả là ở giai đoạn bệnh đã có biểu hiện lâm sàng. Hiện
nay y học đã biết rõ khối u phát triển từ một ít tế bào, có rối loạn,
có đột biến gen và phát triển từ từ. Do đó có thể tập trung phát hiện
được khối u ở giai đoạn sớm, giúp việc điều trị khối u hiệu quả hơn. Cụ
thể với ung thư phổi phát hiện những tổn thương còn bé thì có thể mổ
điều trị triệt để được.
Khoảng vài năm nay, phương pháp tầm soát hiệu quả là chụp CT cắt lớp
hàng năm cho các đối tượng có nguy cơ cao. Hiệp hội ung thư lâm sàng Mỹ
khuyến cáo ung thư phổi có liên quan đến thuốc lá. Người hút thuốc càng
sớm, càng lâu thì càng có nguy cơ cao mắc bệnh ung thư. Người bỏ hút sau
15 năm thì nguy cơ gần như người bình thường. Những người đã và đang
hút thuốc lá cần phải tầm soát hàng năm. Tại Việt Nam, do chương trình
tầm soát cộng đồng vẫn chưa được triển khai nên biện pháp phòng ngừa căn
bản và lâu dài là phòng chống tác hại của hút thuốc lá.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét