CHỮ NHO ... DỄ HỌC
Bài 25 Các bộ 7 nét ( tt và hết )
Như thường lệ, trước khi vào bài học mới ta giải đáp câu đố của bài học trước :
Khứ nhất nhân hoàn hữu nhất khẩu, 去一人還有一口,
Khứ nhất khẩu hoàn hữu nhất nhân. 去一口還有一人。
Phóng hạ thủ nả vật qui khứ, 放下手拿物歸去,
Bàng biên thủ thập vật qui lai. 旁邊手拾物歸來.
Có nghĩa :
Đi một người còn có một khẩu,
Đi một khẩu còn có nột người.
Bỏ tay xuống đem vật trở về,
Tay bên cạnh nhặt vật trở lại.
GIẢI ĐÁP :
Chữ HIỆP 合 ...
* Bỏ chữ NHẤT 一 và chữ NHÂN 人 đi thì còn chữ KHẨU 口.
* Bỏ chữ NHẤT 一 và chữ KHẨU 口 đi thì còn chữ NHÂN 人.
Chữ NẢ 拿 là Lấy, bỏ chữ THỦ 手 bên dưới, còn chữ HIỆP 合.
Chữ THẬP 拾 là Nhặt, bỏ bộ THỦ 扌bên trái, cũng còn lại chữ HIỆP 合.
Bốn câu trên đều đưa về một chữ HIỆP 合. HIỆP còn đọc là HẠP hoặc HỢP, như SẮC CẦM HẢO HIỆP, HẢO HẠP, HẢO HỢP đều được cả ! Hai người cùng một lòng một dạ yêu thương nhau thì gọi là : TÌNH ĐẦU Ý HỢP 情投意合. Vợ chồng hoặc người yêu hay vật gì qúy giá bị người khác chiếm đoạt, giờ lại được trở về đoàn tụ, thì gọi là Châu Về Hiệp Phố hay là HỢP PHỐ HOÀN CHÂU 合浦還珠. Theo tích sau đây :
Vào đời Đông Hán, quận Hợp Phố ( Một huyện của khu tự trị Quảng Tây ngày nay ) nổi tiếng về ngọc trai, dân chúng nơi đây cũng chuyên sống bằng nghề mò ngọc trai. Không ngờ đổi đến một ông tham quan, bắt dân chúng phải ngày đêm không ngừng mò ngọc trai cho ông ta, đến nỗi ngọc trai bỏ đi nơi khác, sản lượng cạn dần, nhiều hộ dân bị đói kém. Hán Thuận Đế Lưu Bảo mới phái Mạnh Thường đến Hợp Phố làm Thái Thú, cải cách các tệ đoan, hạn chế mò bắt ngọc trai vô tội vạ. Chỉ chưa đầy năm sau thì sản lượng ngọc châu lại gia tăng. Dân chúng mới kháo nhau rằng : " Châu đã về Hợp Phố "!
Thực ra, đây cũng là vấn đề nóng hiện nay trong xã hội chúng ta. Nếu chúng ta biết điều tiết, hạn chế hủy hoại môi trường, thì môi trường sống chung quanh chúng ta sẽ tự động tốt lên mà thôi !
Vào đời Đông Hán, quận Hợp Phố ( Một huyện của khu tự trị Quảng Tây ngày nay ) nổi tiếng về ngọc trai, dân chúng nơi đây cũng chuyên sống bằng nghề mò ngọc trai. Không ngờ đổi đến một ông tham quan, bắt dân chúng phải ngày đêm không ngừng mò ngọc trai cho ông ta, đến nỗi ngọc trai bỏ đi nơi khác, sản lượng cạn dần, nhiều hộ dân bị đói kém. Hán Thuận Đế Lưu Bảo mới phái Mạnh Thường đến Hợp Phố làm Thái Thú, cải cách các tệ đoan, hạn chế mò bắt ngọc trai vô tội vạ. Chỉ chưa đầy năm sau thì sản lượng ngọc châu lại gia tăng. Dân chúng mới kháo nhau rằng : " Châu đã về Hợp Phố "!
Thực ra, đây cũng là vấn đề nóng hiện nay trong xã hội chúng ta. Nếu chúng ta biết điều tiết, hạn chế hủy hoại môi trường, thì môi trường sống chung quanh chúng ta sẽ tự động tốt lên mà thôi !
Châu Về Hợp Phố
Đây cũng là một Điển Tích mà ta tìm thấy ngay ở đầu Truyện Kiều của Hồng Sơn Liệp Hộ. Khi thấy cô Kiều đang " quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ ", thì ở cách tường Kim Trọng đã đánh tiếng :
Thoa nầy bắt được hư không,
Biết đâu Hợp Phố mà mong Châu Về ?!
Giáp Cốt Văn Kim Văn Tiểu Triện Lệ Thư
Ta thấy :
Giáp Cốt Văn, Kim Văn là hình tượng của cây đao dùng để xử tử hình ngày xưa. Nên TÂN 辛 nghĩa gốc là Đại Tội 大罪 là Tội lớn, Tội Nặng. Từ đó phát sinh ra nghĩa TÂN là CAY. Ta có từ TÂN KHỔ 辛苦 là Cay Đắng. Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều có câu :
Mùi tục vị lưỡi tê TÂN KHỔ,
Đường thế đồ gót rỗ kỳ khu,
Sóng cồn cửa bể nhấp nhô,
Chiếc thuyền bào ảnh lô xô mặt ghềnh.
Đường thế đồ gót rỗ kỳ khu,
Sóng cồn cửa bể nhấp nhô,
Chiếc thuyền bào ảnh lô xô mặt ghềnh.
TÂN TOAN 辛酸 : TÂN là Cay, TOAN là Chua; TÂN TOAN là Cay Chua, ta thường nói thành CHUA CAY cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Nói thêm về chữ TOAN là Chua, nên CƯỜNG TOAN 強酸 : là Chất Chua Mạnh, ta quen gọi là Acid.
NGŨ TÂN 五辛 : là Năm thứ thảo mộc có vị Cay Nồng là : Hành lá, Tỏi, Hẹ, củ Hành tây, củ Kiệu, còn gọi là NGŨ HUÂN 五葷 : là Năm thứ cải có mùi vị Cay Nồng, Hăng hắc, chỉ dùng để ăn mặn, ăn Chay không dùng được.
Nói thêm về chữ TOAN là Chua, nên CƯỜNG TOAN 強酸 : là Chất Chua Mạnh, ta quen gọi là Acid.
NGŨ TÂN 五辛 : là Năm thứ thảo mộc có vị Cay Nồng là : Hành lá, Tỏi, Hẹ, củ Hành tây, củ Kiệu, còn gọi là NGŨ HUÂN 五葷 : là Năm thứ cải có mùi vị Cay Nồng, Hăng hắc, chỉ dùng để ăn mặn, ăn Chay không dùng được.
Ngũ Tân hay Ngũ Huân, ăn chay không dùng
TÂN 辛 là ngôi thứ tám của Thiên Can 天干 : là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, TÂN, Nhâm, Qúy 甲、乙、丙、丁、戊、己、庚、辛、壬、癸,
TÂN HỢI CÁCH MỆNH 辛亥革命 : là Cách Mạng Tân Hợi, là cuộc cách mạng diễn ra ngày 10 tháng 10 năm Tân Hợi 1911, do Bác sĩ Tôn Trung Sơn lãnh đạo lật đổ nhà Thanh, triều đại cuối cùng của đế chế Trung Hoa để kiến lập nền dân chủ và thành lập nước TRUNG HOA DÂN QUỐC 中華民國. Trước mắt Ngày 10 tháng 10 hàng năm, dân chúng Đài Loan vẫn còn Mừng Lễ Song Thập là ngày Quốc Khánh và vẫn còn tôn xưng Tôn Trung Sơn tiên sinh là Quốc Phụ 國父.
Có tất cả 21 chữ được ghép bởi bộ TÂN nầy, tiêu biểu có :
LẠT 辣 ( 辢 ) : là Cay, là Rát. Khi đi liền 2 chữ LẠT LẠT 辣辣 thì có nghĩa là : Cay xé hay Rát rạt. Ta có các từ :
LẠT TIÊU 辣椒 : là Trái Ớt.
HỒ TIÊU 胡椒 : là Tiêu đen.
TÂM NGẬN THỦ LẠT 心狠手辣 : là Lòng tàn nhẫn nên ra tay tàn độc. Chỉ những người Nhẫn tâm độc ác, thủ đoạn ác độc.
TOAN ĐIỀM KHỔ LẠT 酸甜苦辣 : là Chua ngọt đắng cay, chỉ chịu hết mọi điều Gian nan cực khổ, Vất vả lầm than; vừa là nghĩa đen lại vừa là nghĩa bóng.
TOAN ĐIỀM KHỔ LẠT 酸甜苦辣 : là Chua ngọt đắng cay, chỉ chịu hết mọi điều Gian nan cực khổ, Vất vả lầm than; vừa là nghĩa đen lại vừa là nghĩa bóng.
Chua Ngọt Đắng Cay
Ta phân biệt lại 5 chữ BIỆN và một chữ BAN của bộ TÂN 辛 như sau đây :
辨 ( 辧 ), 辯(辩 ), 辮 ( 辫 ), 辬 ( 斑 ), 瓣 , 辦 ( 办 ).
a/. BIỆN 辨 ( 辧 ) : Có bộ ĐAO 刀 là Cây Dao ở giữa, nên có nghĩa là Phân Biệt, như BIỆN BIỆT 辨别 là Phân biệt một cách rõ ràng. BIỆN CHÍNH 辨正 : Phân biệt một cách chính xác. MINH BIỆN THỊ PHI 明辨是非 : Phân biệt một cách rõ ràng cái nào đúng cái nào sai. Phân biệt phải trái ( Thị Phi ) một cách rõ ràng.
b/. BIỆN 辯(辩 ) : Có bộ NGÔN 言 là Lời Nói ở giữa, nên có nghĩa là Dùng Lời Nói Để Nói Rõ. Như BIỆN LUẬN 辯論, BIỆN HỘ 辯護, BIỆN GIẢI 辯解, BIỆN BẠCH 辯白, BIỆN CHỨNG 辯證, TRANH BIỆN 爭辯 ...
c/. BIỆN 辮 ( 辫 ) : Có bộ MỊCH 糸 là sợi Tơ ở giữa, nên có nghĩa là Cái Bính, Cái Bím tóc, là Cái Đuôi Sam, còn gọi là BIỆN TỬ 辮子. KẾT BIỆN TỬ 結辮子 là Thắt Bính. THẰNG BIỆN 繩辮 là Sợi dây Thừng, Dây Luộc.
d/. BAN 辬 ( 斑 ) : Có bộ VĂN 文 là Vằn Vện ở giữa, nên có nghĩa là Đốm, là Vằn. Như BAN BAN 辬辬 là Lốm Đốm. HỒNG BAN, BẠCH BAN 紅辬, 白辬 là Ban Đỏ, Ban Trắng. BAN MÃ 辬馬 là Con Ngựa Rằn.
e/. BIỆN 瓣 : Có bộ QUA 瓜 là Trái Dưa ở giữa, nên có nghĩa là Một Cánh, Một Lát, Một Miếng, như HOA BIỆN là Một Cánh Hoa, TOÁN BIỆN 蒜瓣 là Một Lát Tỏi, QUA BIỆN 瓜瓣 là Một Miếng Dưa.
f/. BIỆN 辦 ( 办 ) : Có bộ LỰC 力 là Sức lực ở giữa, nên có nghĩa là Làm, như BIỆN SỰ 辦事 là Làm Việc, BIỆN SỰ XỨ 辦事處 là Phòng làm việc, BIỆN PHÁP 辦法 là Cách làm. Trong Truyện Kiều khi đến " Ngày vừa sinh nhật ngoại gia " thì " Trên hai đường dưới cùng là hai em " mới :
c/. BIỆN 辮 ( 辫 ) : Có bộ MỊCH 糸 là sợi Tơ ở giữa, nên có nghĩa là Cái Bính, Cái Bím tóc, là Cái Đuôi Sam, còn gọi là BIỆN TỬ 辮子. KẾT BIỆN TỬ 結辮子 là Thắt Bính. THẰNG BIỆN 繩辮 là Sợi dây Thừng, Dây Luộc.
d/. BAN 辬 ( 斑 ) : Có bộ VĂN 文 là Vằn Vện ở giữa, nên có nghĩa là Đốm, là Vằn. Như BAN BAN 辬辬 là Lốm Đốm. HỒNG BAN, BẠCH BAN 紅辬, 白辬 là Ban Đỏ, Ban Trắng. BAN MÃ 辬馬 là Con Ngựa Rằn.
e/. BIỆN 瓣 : Có bộ QUA 瓜 là Trái Dưa ở giữa, nên có nghĩa là Một Cánh, Một Lát, Một Miếng, như HOA BIỆN là Một Cánh Hoa, TOÁN BIỆN 蒜瓣 là Một Lát Tỏi, QUA BIỆN 瓜瓣 là Một Miếng Dưa.
f/. BIỆN 辦 ( 办 ) : Có bộ LỰC 力 là Sức lực ở giữa, nên có nghĩa là Làm, như BIỆN SỰ 辦事 là Làm Việc, BIỆN SỰ XỨ 辦事處 là Phòng làm việc, BIỆN PHÁP 辦法 là Cách làm. Trong Truyện Kiều khi đến " Ngày vừa sinh nhật ngoại gia " thì " Trên hai đường dưới cùng là hai em " mới :
Tưng bừng sắm sửa áo xiêm,
BIỆN dâng một lễ xa đem tất thành.
" BIỆN dâng một lễ " là LÀM một mâm lễ vật để dâng lên tặng cho ai đó.
NGÔN 言 : là NÓI, là LỜI NÓI. NGÔN 言 là chữ mượn Tượng Hình để Chỉ Sự theo diễn tiến của chữ viết như sau :
Ta thấy :
Giáp Cốt Văn, Kim Văn đều là hình tượng của cái miệng mở và cái lưỡi le ra, ý chỉ đang nói chuyện, nên NGÔN là NÓI, khi là Danh từ thì có nghĩa là LỜI NÓI. Như PHÁT NGÔN 發言, NGÔN LUẬN 言論, NGÔN TỪ 言辭, NGÔN NGỮ 言語 ...
Ta thường gặp các thành ngữ sau đây :
NGÔN HÀNH NHẤT TRÍ 言行一致 : là Lời nói và việc làm y chang nhau, nghĩa là Nói sao thì làm vậy.
NGÔN HÀNH BẤT NHẤT 言行不一 : là Lời nói và việc làm " trớt quớt " không giống nhau, nghĩa là Nói một đàng làm một nẽo !
NGÔN ĐA NGỮ THẤT 言多語失 : là Nói nhiều thì dễ lỡ lời, dễ thất thố và dễ làm mất lòng người khác. Nên ông bà ta thường dạy con cháu : " Nói là bạc, im lặng là ... kim cương !"
Ý TẠI NGÔN NGOẠI 意在言外 hoặc NGÔN NGOẠI CHI Ý 言外之意 : là Cái ngụ ý , cái hàm ý hoặc cái ẩn ý ở bên ngoài lời nói. Cũng có thể hiểu là Những lời nói bóng gió để gợi lên một ý nào đó.
NHẤT NGÔN TƯƠNG THỨC 一言相識 : là Chỉ cần một lời thôi cũng đã hiểu biết lẫn nhau rồi. Như Từ Hải đã từng nói với Thúy Kiều :
Một lời đã biết đến ta,
Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau !
TRUNG NGÔN NGHỊCH NHĨ 忠言逆耳 : là Lời nói trung thực nghe nghịch lổ tai. Ta nói là " Lời thật mất lòng ", những lời nói thật tình nghe không êm tai chút nào cả ! Tăng Quảng Hiền Văn có câu :
TRUNG NGÔN NGHỊCH NHĨ lợi ư hành, 忠言逆耳利於行,
Lương dược khổ khẩu lợi ư bệnh. 良藥苦口利於病。
Có nghĩa :
Lời thật mất lòng nhưng có lợi lúc thực hành,
Thuốc đắng giã tật có lợi cho bệnh hoạn.
PHONG NGÔN PHONG NGỮ 風言風語 : là Những lời nói bóng nói gió, những lời nói mát mẻ ai đó hoặc việc gì đó.
NHẤT NGÔN NAN TẬN 一言難盡 : là Chỉ một lời nói khó mà gỉải bày hết những gì khúc mắc ở trong lòng, hoặc khó mà kể lể hết một câu chuyện dài lâm ly thống thiết.
THIÊN NGÔN VẠN NGỮ 千言萬語 : là Một ngàn lời nói, một vạn lời nói. Ý chỉ có Ngàn lời vạn lẽ muốn bày tỏ cùng nhau.
KIM NGỌC LƯƠNG NGÔN 金玉良言 : là Lời vàng ý ngọc, dùng chỉ những lời nói hay hoặc những lời khuyên qúy báu. Như khi Kim Trọng nghe Thúy Kiều đàn xong thì có nhận xét là :" Lựa chi những khúc tiêu tao, Thiệt lòng mình cũng nao nao lòng người !?" Cô Kiều đã đáp rất lịch sự là :
" LỜI VÀNG vâng lĩnh Ý CAO,
Họa dần dần bớt chút nào được không !"
KIM THẠCH CHI NGÔN 金石之言 : là Lời nói vững như vàng chắc như đá. Ý chỉ nói ra rồi thì chắc chắn không hề thay đổi ! Như khi cô Kiều nhận lời hẹn ước của Kim Trọng :
" Đã lòng quân tử đa mang,
Một lời vâng tạc ĐÁ VÀNG thủy chung !"
Kim Ngọc Lương Ngôn
Kim Thạch Chi Ngôn
Có tất cả 416 chữ từ 7 nét cho đến 29 nét, được ghép bởi bộ NGÔN 言 nầy, chứng tỏ con người ta luôn luôn " nhiều chuyện và thích... tám " vô cùng ! Tiêu biểu có :
NGỮ 語 : Cũng là Lời Nói, là NGÔN NGỮ 言語 như trên đã nêu.
NGỮ VĂN 語文 : Ngôn ngữ và Văn học. Khoa NGỮ VĂN là Khoa học nghiên cứu về ngôn ngữ và văn học văn minh văn hóa.
NGỮ PHÁP 語法 : là Khoa học nghiên cứu về các mẹo luật và tập quán ngôn ngữ để nói và viết đúng với các mẹo luật và tập quán của ngôn ngữ đó. Ngữ Pháp còn được gọi là Văn Pham.
TẠ 謝 : là Lời cảm kích đối với người giúp đỡ hoặc ban ân huệ cho ta, là Lời Cám Ơn, như CẢM TẠ 感謝, ĐA TẠ 多謝, TẠ ÂN 謝恩, NGÔN TẠ 言謝 là Nói lời Cám Ơn ...
TẠ còn có nghĩa là Nhận, như TẠ TỘI 謝罪 là Nhận Tôi, TẠ LỖI là Nhận Lỗi ...
TẠ là Từ Chối, như BẾ MÔN TẠ KHÁCH 閉門謝客 : là Đóng cửa lại từ chối tiếp khách.
TẠ là Tàn Tạ, là Chết đi, như TẠ THẾ 謝世 : là Lìa Đời, là Chết. Còn HOA TẠ 花謝 : là Hoa Tàn. THỦY LƯU HOA TẠ 水流花謝 : là Nước chảy hoa tàn, ta nói là " Nước cuốn hoa trôi ". Đây là thành ngữ có xuất xứ từ bài XUÂN TỊCH của Thôi Đồ đời Đường, toàn bài như sau :
水流花謝兩無情, THỦY LƯU HOA TẠ lưỡng vô tình,
送盡東風過楚城。 Tống tận đông phong qúa Sở thành.
胡蝶夢中家萬里, Hồ điệp mộng trung gia vạn lý,
子規枝上月三更。 Tử quy chi thượng nguyệt tam canh.
故園書動經年絕, Cố viên thư động kinh niên tuyệt,
華髮春唯滿鏡生。 Hoa phát xuân duy mãn kính sinh.
自是不歸歸便得, Tự thị bất quy quy tiện đắc,
五湖煙景有誰爭。 Ngũ hồ yên cảnh hữu thùy tranh.
Dịch Nghĩa :
Nước cuốn hoa trôi cả hai đều vô tình, đều rất tự nhiên...
Cũng như gió xuân đã thổi hết qua Sở thành suốt mùa xuân.
Ta vẫn mơ màng giấc bướm về cố hương xa xôi vạn dặm...
Tỉnh dậy đã canh ba trăng đã treo đầu cành cùng tiếng tử quy.
Vì biến động nên suốt năm ta không nhận được thư từ quê nhà
Trong khi mái tóc xuân đà điểm bạc bạc cả gương soi.
Nếu muốn về quê thì ta đã về rồi, nhưng vì ta chưa muốn về...
Cái cảnh sương khói mơ màng của vùng Ngũ Hồ ở quê ta đó, có ai mà giành giựt gì được với ta đâu ! ( Tại bất đắc chí nên ta chưa muốn về mà thôi !). Cũng như hiện giờ đang ở Mỹ, chưa muốn về Việt Nam không phải là không về được, mà là vì ... buồn trong bụng qúa ... chừng chừng, nên hổng muốn về mà thôi !!!
Diễn Nôm :
Hoa trôi nước cuốn vô tình,
Gió đông thổi hết Sở thành thôi xanh.
Chập chờn giấc bướm năm canh,
Tử quy ngơ ngẩn đầu cành gọi trăng,
Thơ nhà năm hết bặt tăm,
Soi gương tóc đã hoa răm mất rồi.
Muốn về lòng lại bảo thôi,
Ngũ Hồ cảnh đẹp ai người tranh đâu ?!
Thủy lưu hoa tạ lưỡng vô tình
ẤP 邑 : là Thị Tứ. Nơi có đông người ở. ẤP 邑 là chữ dùng Tượng Hình để Hội Ý theo diễn tiến của chữ viết như sau :
Ta thấy :
Giáp Cốt Văn là hình tượng của bộ VI 囗 là Bờ Bao, Bờ Thành, bên dưới là hình của một người đang qùy, tượng trưng cho thần dân của nơi đó, nên ẤP là THÀNH ẤP 城邑, là THỊ TỨ 市肆, THỊ TRẤN 市鎮, nơi tập trung nhiều người ở có tổ chức hẵn hoi. ẤP 邑 còn được viết dưới dạng nầy 阝nằm bên phải chữ, nên còn gọi là " Lổ Tai Bên Phải "như chữ GIAO 郊, chữ QUẬN 郡, chữ ĐÔ 都 ...
ẤP còn là Đất của Chư hầu phong cho các Đại Phu trong thời Phong Kiến, gọi là THÁI ẤP 采邑. Nên ...
ẤP NHÂN 邑人 : là Người cùng Ấp, chỉ Người Đồng hương.
TIẾT ẤP LÃNH CHÚA 薛邑領主 : Mạnh Thường Quân kế thừa phụ ấm làm Lãnh Chúa của Tiết Ấp vốn được Tề Vương phong cho trong thời Xuân Thu Chiến Quốc. Hiện nay thuộc TIẾT THÀNH của tỉnh Sơn Đông.
Tương truyền, khi còn làm Tể Tướng cho Tề Vương, một hôm, Mạnh Thường Quân nhờ Phùng Huyên là một thực khách trong số 3000 thực khách ở nhà, đến Tiết Ấp để đòi nợ và lấy tiền lãi. Trước khi lên đường, Phùng Huyên hỏi Mạnh Thường Quân rằng : " Thu được tiền rồi, Tể Tướng có định mua gì không ?".Mạnh Thường Quân đáp : " Ông xem nhà ta còn thiếu thứ gì thì mua thứ đó !". Lúc đến Tiết Ấp, sau khi đã thu xong tiền của một số hộ lớn, còn các hộ nhỏ thì vì mùa màng thất bát không có tiền để trả. Phùng Huyên mới lấy số tiền thu được cho thiết tiệc mời tất cả thần dân trong ấp đền dự. Trong bửa tiệc,ông thay mặt Mạnh Thường Quân cám ơn các hộ lớn, an ủi các hộ nhỏ và cho thu lại tất cả các giấy nợ rồi ... đốt hết, xóa nợ luôn ! Dân Tiết Ấp cảm kích không ngớt lời cảm tạ.
Khi về đến nhà, Mạnh Thường Quân nghe tin, giận hỏi : " Ta bảo ông đi thu nợ, sao lại xóa hết nợ của ta đi, ta phải nuôi đến 3000 thực khách ở trong nhà, ông có biết không ?". Phùng Huyên đáp :" Nợ của các hộ lớn đã thu, còn các hộ nhỏ đa số là bần nông, tay làm hàm nhai, là nợ khó đòi, nếu ta áp bức qúa, dân sẽ bỏ qua ấp khác mà ở, như thế sẽ tổn hại đến thanh danh của Tể Tướng, nên tôi mới sẵn dịp mà mua cái ân nghĩa nầy cho Tể Tướng đó !" Mạnh Thường Quân nghe nói hợp tình hợp lý, bèn đứng lên thi lễ mà bỏ qua, không còn nhớ đến nữa.
It lâu sau, Tề Vương nghe lời dèm xiểm, bãi chức Tể Tướng của Mạnh Thường Quân cho về Tiết Ấp. Khi đoàn người vừa về đến đầu Ấp, Mạnh Thường Quân thấy rất đông dân chúng, gái trai già trẻ dắt díu nhau ra chào đón chật cả đường đi. Qúa cảm động, ông quay sang nói với Phùng Huyên rằng : " Đây là cái ÂN NGHĨA mà ông đã MUA cho ta ngày trước đó ! ".
Mạnh Thường Quân mua Ân Nghĩa
Có khoảng 80 chữ được ghép bởi bộ ẤP 邑 và " Lổ tai bên phải " 阝 nầy, tiêu biểu có chữ :
BỘ 郶 ( 部 ) : là PHẦN, là một phần của TOÀN BỘ 全部, là BỘ PHẬN 部分. ĐẦU BỘ 頭部 là Phần Đầu, PHÚC BỘ 腹部 là Phần Bụng. NỘI BỘ 內部 là Phần trong, NGOẠI BỘ 外部 là Phần ngoài ...
BỘ còn là đơn vị được thiết lập bởi cơ quan nhà nước, xí nghiệp hay một tổ chức. Như NGOẠI GIAO BỘ 外交部 là Bộ Ngoại Giao, QUẢNG CÁO BỘ 廣告部 là Bộ phận Quảng cáo, KẾ TOÁN BỘ 計算部 là Bộ phận Kế Toán, BỘ ĐỘI 部隊 là Đơn vị Bộ Binh ...
BỘ còn có nghĩa là Quyển Vở, gọi là BỘ TỬ 部子. TIỆN DỤNG BỘ 便用部 : là Sổ ghi chép, Vở nháp.
BỘ là cấp dưới phụ thuộc, như BỘ HẠ 部下, BỘ TƯỚNG 部将, BỘ THUỘC 部属, BỘ LẠC 部落 ...
BỘ là Mạo Từ, như NHỨT BỘ TIỂU THUYẾT 一部小說 là Một Bộ Tiểu Thuyết, NHỨT BỘ ĐIỆN ẢNH 一部電影 là Một Bộ Phim, NHỨT BỘ XA 一部車 là Một Chiếc Xe ...
GIAO 郊 : Bên ngoài ẤP là GIAO, Phía ngoại thành cũng là Giao. Nên GIAO là vùng đất, cánh đồng bên ngoài thành phố, Thị Trấn, gọi là GIAO DÃ 郊野. Ta có dốc Nam Giao ở ngoại thành của cố đô Huế rất nỗi tiếng trong văn thơ.
GIAO còn là nghi thức tế lễ ngày xưa. Khi vua mới lên ngôi tế cáo với trời gọi là SƠ GIAO 初郊, hằng năm tế thiên địa gọi là GIAO XÃ 郊社.
QUẬN 郡 : là Đơn vị hành chánh ngày xưa, trước đời Tần thì Quận nhỏ hơn Huyện, sau đời Tần thì Quận lớn hơn Huyện. Tần Thủy Hoàng chia cả nước ra làm 36 QUẬN. Nên ta có từ...
QUẬN CHÚA 郡主 : là Người cầm đầu trong một Quận, tương đương như tỉnh trưởng ngày nay.
Nói theo đơn vị hành chánh ngày nay trong nước ta thì QUẬN và HUYỆN ngang hàng nhau, trong Thành Phố thì chia làm nhiều QUẬN, còn ở các Tỉnh thì chia làm nhiều HUYỆN.
ĐÔ 都 : là Thành phố lớn, như ĐÔ THỊ 都市, ĐÔ HỘI 都會 ...
ĐÔ Thành phố nơi Vua, Tổng Thống hoặc Chủ Tịch Nước ở, gọi là KINH ĐÔ 京都, THỦ ĐÔ 首都.
Ta thấy :
Từ Giáp Cốt Văn đến Kim Văn Đại Triện đều là hình tượng của một cái hủ bằng sành dùng để đựng chất lỏng, để ủ rượu, ủ giấm. Nên tất cả các chữ được ghép bằng bộ DẬU đều có liên quan tới rượu, tới giấm, tới chất lên men. Như TỬU 酒 là Rượu, THỐ 醋 là Giấm, TƯƠNG 醬 là Tương đượu ủ bằng đậu ...
DẬU 酉 là ngôi thứ mười của Thập Nhị Địa Chi, phối hợp với Thập vị Thiên Can dùng để chỉ năm Âm Lịch, như năm 2017 là năm ĐINH DẬU 丁酉, còn nạn đói năm ẤT DẬU 乙酉 là năm 1945.
DẬU NGUYỆT 酉月 là Tháng Tám Âm lịch, ta gọi là Tháng Dậu.
DẬU THÌ 酉時 là Giờ Dậu, là từ 5 đến 7 giờ chiều tối.
Con Gà Đinh Dậu 2017
Có tất cả 215 chữ được ghép bởi bộ DẬU nầy, tiêu biểu có :
Có tất cả 215 chữ được ghép bởi bộ DẬU nầy, tiêu biểu có :
TÚY 醉 : là Say. TÚY TỬU 醉酒 là Say rượu, ta thường nghe câu :
TỬU BẤT TÚY NHÂN, NHÂN TỰ TÚY, 酒不醉人人自醉,
Sắc bất mê nhân nhân tự mê ! 色不迷人人自迷!
Có nghĩa :
Rượu tự nó không làm say người, chỉ do người tự say mà thôi.
Sắc đẹp tự nó cũng không làm cho con người mê mẫn, chỉ là con người tự mê mẫn với sắc đẹp mà thôi !
TỈNH 醒 : là Thức dậy sau khi ngủ, sau khi say, sau khi mê mẫn, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, như THỤY TỈNH 睡醒 là Thức giấc, TỬU TỈNH 酒醒 là Tỉnh rượu sau cơn say, TỈNH NGỘ 醒悟 là Làm sai sau đó chợt hiểu ra cái sai của mình, Tỉnh ra ! Khi mơ thấy Đạm Tiên từ biệt, cô Kiều còn định "...cầm lại một hai tự tình ", nhưng trong lúc đó thì ...
Gió đâu xịch bức mành mành,
TỈNH RA mới biết rằng mình chiêm bao !.
TỈNH RA mới biết rằng mình chiêm bao !.
PHỐI 配 : là Gia giảm nguyên liệu cho thích hợp, như PHỐI HỢP 配合, PHỐI LIỆU 配料, PHỐI CHẾ 配制 ...
PHỐI DƯỢC 配药 : là Hốt Thuốc Bắc, thuốc Nam.
PHỐI SẮC 配色 : là Pha màu cho thích hợp.
PHỐI còn có nghĩa là cắt đặt, sắp xếp, như PHỐI TRÍ 配置 là Bố trí,
PHÂN PHỐI 分配 ...
PHỐI là tội nhân đi đày ngày xưa gọi là PHÁT PHỐI 發配.
PHỐI còn có nghĩa là kết hợp trai gái lại với nhau, như HÔN PHỐI 婚配, CHÁNH PHỐI 正配 là Vợ Lớn, PHỐI NGẪU 配偶 là Người sánh đôi, là Người Hôn Phối : Vợ hoặc Chồng.
TRÃI 豸 : là Loài sâu bọ có thân mình mềm mại, không có chân gọi là TRĨ 豸, có chân gọi là TRÙNG 虫. TRĨ 豸 là chữ Tượng Hình theo diễn tiến của chữ viết như sau :
Ta thấy :
Giáp Cốt Văn, Kim Văn Đại Tiểu Triện đều là hình tượng của của một con thú có thân mình dài, mềm mại, đầu cuối xuống trông có vẻ hiền lành. Sau dùng rộng ra dùng để chỉ chung các loài sâu bọ có thân hình mềm mại. Như MIÊU 貓 là Con Mèo, SÀI 豺 là một loại chó sói nhỏ con rất hung ác, ta quen gọi là SÀI LANG 豺狼. BÁO 豹 là Con Beo ...
Có tất cả 37 chữ được ghép bởi bộ TRÃI nầy, tiêu biểu có :
TÌ HƯU 豼貅 ( 貔貅 ) : là Một loại mãnh thú có đầu như rồng, như Kỳ lân, mình như sư tử, rất dũng mãnh, là con vật trong thần thoại của Trung Hoa, còn có tên là Tị Tà ( Tránh tà ), Thiên Lộc ( Lộc của trời ban ). Tương truyền Tì Hưu có miệng nhưng không có hậu môn, có thể ăn hết tài vật của cải qúy gía của thiên hạ mà không phải thải ra chút nào cả ! Qủa là con vật hợp với lòng tham không đáy của con người, chỉ thu vào mà không chịu cho ra tí tẹo nào cả ! Người Hoa chưng con vật nầy để " Chiêu Tài Tấn Bửu " thu vào hoài hoài mà khỏi phải chi ra !
TÌ HƯU : Con thú Lộc Trời Ban, chỉ vào mà không có ra.
MẠO 貌 : là Khuôn mặt, là DIỆN MẠO 面貌, DUNG MẠO 容貌, TƯỚNG MẠO 貌相 ...
DĨ MẠO THỦ NHÂN 以貌取人 : là Nhìn diện mạo mà chọn người, ta nói là : " Xem mặt mà bắt hình dong ". Đọc câu nầy làm ta nhớ đến bài " Mẹ Mốc " của Cụ Tam Nguyên YÊN ĐỖ, trong đó có 2 câu chữ Hán như thế nầy :
MẠO ngoại bất cầu như mỹ ngọc, 貌外不求如美玉,
Tâm trung thường thủ tự kiên kim. 心中常守似堅金。
Có nghĩa :
Diện mạo bên ngoài không cầu phải đẹp như ngọc. Chỉ cần...
Trong lòng luôn luôn giữ vững chắc như vàng ròng mới quí !
LỄ MẠO 禮貌 : Vẻ bên ngoài trông lễ độ, là Lễ Phép.
LANG TÀI NỮ MẠO 郎才女貌 : là Con Trai thì phải có tài, con Gái thì phải đẹp. Chàng thì phải giỏi giang, còn Nàng thì phải đẹp đẽ, mới không bị... ế !
HOA DUNG NGUYỆT MẠO 花容月貌 : là Mặt tròn như mặt trăng và đẹp như đóa hoa. Cụ Nguyễn Du đã tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều Thúy Vân là :
....................
Khuôn TRĂNG đầy đặn, nét ngài nở nang,
HOA cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da........
....................
Khuôn TRĂNG đầy đặn, nét ngài nở nang,
HOA cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da........
TẨU 走 : là ĐI, là CHẠY. TẨU 走 là chữ dùng Tượng Hình để Hội Ý, theo diễn tiến của chữ viết như sau :
Ta thấy :
Kim Văn, Đại Triện, Tiểu Triện đều là hình tượng của một người đang dang hai tay hai chân như đang chạy ở phía trên, bên dưới là hình chữ CHỈ 止 là cái Dấu Chân. Nên chữ TẨU 走 vốn nghĩa là CHẠY, nhưng trong ngôn ngữ thường dùng với nghĩa ĐI. Chạy và Đi đều là động tác di chuyển của chân chỉ khác nhau ở chỗ mau và chậm mà thôi. Như :
TẨU LỘ. TẨU BỘ 走路。走步 : là Đi đường, đi bộ.
ĐÀO TẨU 逃走 : là Chạy trốn.
Một số nghĩa dùng rộng ra của chữ TẨU như :
TẨU MÃ 走馬 : là Cưởi ngựa, ta cũng nói là Chạy Ngựa.
TẨU TƯ 走私 : Không có nghĩa là Đi Riêng, Chạy Riêng, mà có nghĩa là Buôn Lậu. Buôn trốn thuế.
TẨU CẨU 走狗 : Không có nghĩa là Chó Chạy, mà là Chạy như Chó, dùng để chỉ những kẻ làm CHÓ SĂN, TAY SAI cho kẻ địch.
TẨU TÁN 走散 : là Đi tản ra khắp nơi, nên có nghĩa là : Đem giấu đi mỗi thứ một nơi, như " TẨU TÁN đồ ăn cắp ăn trộm ". Tẩu Tán Tài Sản : là đem tài sản đi cầm cố, thế chấp, sang nhượng hoặc tặng cho người thân, bạn bè, người quen ... hay dấu diếm ở nhiều nơi để trốn tránh pháp luật hoặc ai đó.
ĐÔNG BÔN TÂY TẨU 東奔西走 : là Chạy đông chạy tây, ta nói là Chạy ngược chạy xuôi. Chỉ sự vất vả để lo toan một việc gì đó.
PHI SA TẨU THẠCH 飛沙走石 : là Cát bay đá chạy, chỉ cuồng phong gió lớn hay dùng để chỉ những người có pháp thuật cao cường, có thể " Hô phong hoán vũ, Phi sa tẩu thạch ", là " Hô mưa gọi gió, làm cho đá chạy cát bay !".
Phi Sa Tẩu Thạch :
Có tất cả 66 chữ được ghép bởi bộ TẨU nầy, tiêu biểu có :
PHÓ 赴 : là Đi, là Đến, là Dự, Như ...
PHÓ NHẬM 赴任 : là Đi nhậm chức, PHÓ HỘI 赴會 : là Đi Dự Hội.
PHÓ YẾN 赴宴 : là Đi Ăn tiệc. PHÓ THÍ 赴試 : là Đi Dự Thi ...
PHÓ THANG ĐẠO HỎA 赴湯蹈火 : là Đi vào nước sôi, nhảy vào trong lửa. Ta nói là " Dầu sôi lửa bỏng ".
SIÊU 超 : là Vượt Qua, Vượt Trội, như ...
SIÊU TỐC 超速 : là Vượt qua tốc độ bình thường.
SIÊU THANH 超聲 : là Vượt qua tốc độ của âm thanh.
SIÊU QUẦN 超群 : là Người vượt trội nhất trong đám đông.
SIÊU QUẦN XUẤT CHÚNG 超群出眾 : hay Siêu Quần Bạt Tuỵ đều có nghĩa là : Vượt hẵn lên trên mọi người chung quanh một cách xuất sắc, hơn hẵn mọi người !
SIÊU CẤP 超級 : là Vượt lên trên cấp độ bình thường. SIÊU CẤP THỊ TRƯỜNG 超級市場 : Ta thường gọi tắt là SIÊU THỊ, trong đó có tất cả thực phẩm, vật dụng cho nhà bếp cho gia đình, kể cả quần áo và đồ trang sức đều đầy đủ cả !
SIÊU NHÂN 超人 : là Người có khả năng vượt trội hơn tất cả người thường, là Superman !
SIÊU ĐỘ 超度 : là Độ cho vượt qua tất cả các A Tì Địa Ngục để được đi đầu thai mà không phải làm ngạ quỷ.
TÚC 足 : là CHÂN, là Giò, là Cẳng. TÚC 足 là chữ dùng Tượng Hình để Hội Ý , theo diễn tiến của chữ viết như sau :
Ta thấy :
Kim Văn, Đại Triện và Tiểu Triện đều là hình tượng của một vòng tròn ở trên tượng trưng cho cái đầu gối, phần dưới là chữ CHỈ 止 là hình cái bàn chân. Gộp ý của 2 phần lại, ta có nguyên cái Chân. Nên TÚC 足 là CHÂN, như TÚC CẦU 足球 : là Banh được đá bằng Chân, nên ta còn gọi là Bóng Đá.
THỦ TÚC 手足 : là Tay Chân. Ông bà ta dạy :
Huynh đệ như THỦ TÚC, 兄弟如手足,
Phu phụ như y phục. 夫婦如衣服。
Có nghĩa :
Anh em như thể tay chân, còn Vợ chồng thì như quần áo.
Quần áo rách, dơ thì có thể thay cái khác được, còn tay chân bị gãy bị đứt đi rồi, thì không thể thay cái mới được. ( Có thay thì cũng là Tay Chân Giả !).
HỌA XÀ THIÊM TÚC 畫蛇添足 : là Vẽ rắn thêm chân, chỉ làm những việc tào lao, vô bổ, giới bình dân gọi là Làm Láp !
TÚC HẠ 足下 : là Từ dùng để tôn xưng người khác, hàm ý khiêm nhượng là mình chỉ xứng đáng ở dưới chân của người ta mà thôi. Nên TÚC HẠ được dùng như từ Ông, là Ngôi thứ 2 số ít. Gọi người ta là TÚC HẠ, còn mình tự xưng là TẠI HẠ 在下 : là Kẻ dưới nầy, kẻ hèn này... để thế cho chữ TÔI.
CAO TÚC 高足 : Không phải là Cao Chân, Cao Cẳng gì cả, mà là từ lịch sự dùng để tôn xưng đệ tử của người khác. Gọi học trò của người ta bằng : LỆNH CAO TÚC 令高足. Còn tự xưng học trò của mình là TIỂU ĐỒ 小徒 : là Thằng trò nhỏ của tôi !
TÚC 足 còn có nghĩa là Đủ, như TÚC SỐ 足數 là Đủ số rồi. TÚC TRÍ ĐA MƯU 足智多謀 : Ta nói là " Lắm mưu nhiều kế ".
TÚC 足 còn có nghĩa là Đủ, như TÚC SỐ 足數 là Đủ số rồi. TÚC TRÍ ĐA MƯU 足智多謀 : Ta nói là " Lắm mưu nhiều kế ".
NHÂN TÂM BẤT TÚC 人心不足 : là Lòng người không đủ, Ý nói Lòng tham của con người không bao giờ biết đủ cả; có một thì muốn hai, có hai rồi thì muốn tới ...100 lận ! Câu nầy còn được nói như sau : Nhân Tâm Bất Túc Xà Thôn Tượng 人心不足蛇吞象 : là " Lòng tham của con người không bao giờ biết đủ, như rắn mà muốn nuốt voi vậy ! Trong bài Hát Nói " Chữ Nhàn " của Nguyễn Công Trứ có một đôi câu chữ :
Tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc ?
知 足 便 足, 待 足, 何 時 足?
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn ?
知 閒 便 閒, 待 閒, 何 時 閒?
Có nghĩa :
Biết đủ, thì là đủ; đợi cho đủ, biết đến bao giờ mới đủ ?
Biết nhàn thì hãy nhàn đi; đợi cho nhàn, biết đến bao giờ mới được nhàn ?!
Có tất cả 249 chữ được ghép bởi bộ TÚC 足 nầy, tiêu biểu có :
LỘ 路 : là Con Đường. Như TIỂU LỘ 小路, ĐẠI LỘ 大路, THUỶ LÔ 水路, LỤC LỘ 陸路 ... Tăng Quảng Hiền Văn có câu :
LỘ DIÊU tri mã lực, 路遙知馬力,
Nhật cửu kiến nhân tâm. 日久見人心。
Có nghĩa :
Đường có xa mới biết được sức ngựa giỏi hay dở, còn...
Chuyện đời thì có lâu ngày mới biết được là lòng người tốt hay xấu. Ta nói là :
Thức khuya mới biết đêm dài,
Ở lâu mới biết là người có nhân .
LỘ còn chỉ cái ý của phương hướng hoặc hành động, như :
TƯ LỘ 思路 : là Cái dòng tư duy suy nghĩ.
TƯ LỘ 思路 : là Cái dòng tư duy suy nghĩ.
SINH LỘ 生路 : là Con đường để sinh sống ( chỉ nghề nghiệp ) hay Sự sống còn ( khi phải đứng trước sự chon lựa giữa chết và sống ).
TỬ LỘ 死路 : là Con đường chết, con đường không có lối thoát.
NGOẠI LỘ HÓA 外路货 : là Hàng hóa có được do con đường ngoại nhập ( có thể hợp pháp hoặc không hợp pháp ).
NHỨT LỘ BINH MÃ 一路兵馬 : Ta nói là Một Cánh Quân. Khác với MỘT LỘ QUÂN là một đơn vị tổ chức trong Quân đội, lớn hơn cả một Binh Đoàn, Quân Đoàn.
NHỨT LỘ PHƯỚC TINH 一路福星 : LỘ 路 vốn là một đơn vị hành chánh ngày xưa, tương đương với một tỉnh lớn của ngày nay, như KINH ĐÔNG LỘ là vùng đất Kinh Đông, sau dùng làm nghĩa chỉ Con Đường. PHÚC TINH 福星 là Phước lành trong năm. Nên...
NHẤT LỘ PHƯỚC TINH vốn chỉ một ông quan tốt chăm lo cho đời sống của dân lành, theo điển tích sau đây :
Vào đời nhà Tống, có một vị quan rất thanh liêm mẫu mực, thương dân như con đẻ, họ Tiên Vu tên Tử Tuấn. Khi ông được lệnh bổ nhiệm về làm Chuyển Vận Sứ của Kinh Đông Lộ, trước khi lên đường phó nhậm, quan Thượng Thư Tư Mã Quang nói rằng : " Phước tinh đã lên đường, phải chi có một trăm người như Tử Tuấn trấn nhậm khắp nơi thì tốt biết bao nhiêu !". Vì câu nói nầy mà mọi người gọi Tử Tuấn là : NHẤT LỘ PHÚC TINH. Những thơ văn ca ngợi ông có câu "Phúc tinh nhất lộ chi ca dao, Sanh phật vạn gia chi hương hỏa 福星一路之歌谣,生佛万家之香火." của Đới Dực đời Tống. Có nghĩa : Lời ca dao khen là Nhất Lộ Phúc Tinh, là ông Phật sống đem lại hương hỏa cho muôn nhà !
Trong tác phẩm " SÃI VÃI " của Nguyễn Cư Trinh, ông Sãi đã khoe rằng mình cũng đã làm quan, và cũng đã từng là một ông quan tốt :...Xưa Sãi cũng biết giữ mình làm côi; xưa Sãi cũng hay lấy đức chăn dân. Giữ thước mực cầm cân; đánh roi bồ răn chúng. Nên bà Vãi đã khen rằng :
Dầu chẳng "Vạn gia sanh Phật",
Cũng là "nhất lộ phước tinh".
Vạn gia sanh phật Nhất lộ phúc tinh
Như thường lệ, trước khi kết thúc bài học nầy, mời tất cả cùng đoán một chữ cho vui :
Tây gia nhất chích cẩu, 西家一隻狗,
Truy tung bất kiến tẩu, 追蹤不見走。
Tẩu đáo siêu thị trung, 走到超市中,
Hồi thân bất kiến đầu ! 回身不見頭 !
Có nghĩa :
Nhà mé tây có một con chó.
Đuổi theo nó nhưng không thấy đi.
Đi đến vào trong siêu thị.
Quay mình lại thì không thấy đầu !
Đỗ Chiêu Đức
dễ mà khó đó
Trả lờiXóa