Thứ Tư, 7 tháng 12, 2016

NGÀY XUÂN ĐỌC THƠ NGUYỄN DU:"QUỲNH HẢI NGUYÊN TIÊU" /Nguyễn Cang

 瓊海元宵
元夜空庭月滿天
依依不改舊嬋娟
一天春興誰家落                  


萬里瓊州此夜圓
鴻嶺無家兄弟散
白頭多恨歲時遷
窮途憐汝遙相見
海角天涯三十年。


  (阮攸)

Phiên âm Hán Việt:
Quỳnh Hải Nguyên Tiêu
Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,
Y y bất cải cựu thuyền quyên.
Nhất thiên xuân hứng, thuỳ gia lạc,
Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán,
Bạch đầu đa hận tuế thì thiên.
Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến,
Hải giác thiên nhai tam thập niên.
 (Nguyễn Du)

    Nguyễn Du (阮攸, 1765-1820) sinh ra trong một danh gia vọng tộc, phú quý bậc nhất cuối đời Vua Lê chúa Trịnh. Dinh cơ nhà họ Nguyễn thật đồ sộ, người ăn kẻ ở, ngựa xe, võng lọng vào ra suốt ngày. Cuộc sống sum hợp tưởng bền lâu nào ngờ tai ương biến cố đổ ập xuống khiến gia đình họ Nguyễn tan nát. Việc riêng trong gia đình cộng với vận nước điêu linh đã xô đẩy đời ông vào cảnh phong ba bão táp khiến ông phải lang bạt giang hồ rày đây mai đó trong cảnh nghèo khổ một thời gian dài, ông gọi là "Mười năm gió bụi" (1786-1796). Năm lên mười thì cha ông, Tể Tướng Nguyễn Nghiễm mất,ba năm sau mẹ ông là thứ thất cũng lìa đời. Mồ côi cha lẫn mẹ năm mưòi ba tuổi. Lúc nầy ông buộc lòng phải ra đi sống nương nhờ nhà người anh cả cùng cha khác mẹ là Quận Công Nguyễn Khản, lớn hơn ông 30 tuổi. Được mấy năm thì trong nước có loạn, chúa Trịnh Sâm âm mưu định bỏ trưởng lâp thứ làm sinh ra loạn kiêu binh khiến triều đình bất ổn, dân sinh ta thán. Quân Tam Phủ ỷ có công trong việc giúp người con trưởng là Trịnh Khải giành lại được ngôi chúa (1782)nên đâm ra lộng hành quấy phá, giết hại công thần, cướp của nhà dân, gây biết bao đau khổ. Lúc bấy giờ dinh cơ họ Nguyễn ở phố Bích Câu cũng bị đốt sạch, bản thân Nguyễn Khản cũng phải bỏ chạy về Sơn Tây lánh nạn, còn Nguyễn Du thì về nguyên quán ỏ Hà Tỉnh...


Bài thơ được sáng tác trong trường hợp nào?
Bài thơ Quỳnh Hải Nguyên Tiêu được sáng tác trong năm cuối của "Mười năm gió bụị". Cuộc sống đói khổ, bịnh hoạn kéo dài ba năm mà không  tiền mua thuốc làm ông suy sụp tinh thần, tam sinh tích bệnh bần vô dược. Đối với ông mùa xuân theo lẽ từ trên Trời rơi xuống phải chan đều khắp mọi nhà nhưng sao lại rơi lạc phương trời nào? Ngày 15 Tết, nhiều nhà vui đón Xuân, riêng ông chỉ biết thở dài nhìn Xuân từ từ đi qua một cách lặng lẽ, có chăng là ánh trăng mờ tỏ của ngày xưa thơ ấu mà thôi. Ông ngắm vầng trăng mà lòng xót thương cho dân nghèo bị cường hào ác bá quấy nhiễu, hành hạ, còn triều đình thì rối ren, ngoại xâm dòm ngó. đồng thời xót thưong cho thân phận của mình, đã ba mươi tuổi đời mà vẫn còn phiêu bạt đó đây, ăn nhờ ở đậu bên vợ. Ngày Tết tác giả nhớ nhà, nhớ cha mẹ amh em, tâm trạng thật buồn, chỉ còn vầng trăng sáng là bạn đến thăm mà thôi. "Trăng" là một biện pháp tu từ hoán dụ thay thế cho người, bạn. Trăng là giống hữu tình, chủ động tìm đến thăm ông trong lúc ông cô đơn. Càm xúc dâng trào nên ông viết lên những vần thơ trác tuyệt.
Bài thơ chữ Hán Quỳnh Hải Nguyên Tiêu mở đầu cho tập thơ Thanh Hiên Tiền Hậu Tập của tiên sinh. Bài thơ nầy không phải sáng tác trứơc mà có sau các bài: Sơn Trung Mạn Hứng, Tự Thán, Khất Thực, trong tập sách kể trên.
Các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam có nhận xét: Truyện Kiều là một kiệt tác của văn học Việt Nam, đựợc viết bằng chữ Nôm nhưng xét cho cùng thì vẫn cón thua thơ chữ Hán của ông. Ngoài tập thơ đó ra ông còn sáng tác các tập thơ khác bằng chữ Hán như: Nam Trung Tạp Ngâm, Thanh Hiên Thi Tập, Bắc Hành Tạp Lục. So với các nhà thơ đời Thịnh Đường bên Trung Quốc, ông đâu có thua gì các bậc thi bá kia! Để kết luận về giá trị nghệ thuật của bài thơ nầy cũng như tài năng của Nguyễn Du, tôi xin trích lời nhận xét của nhà thơ Thảo Nguyên về bài thơ Quỳnh Hải Nguyên Tiêu: "Bài thơ toàn bích, có bố cục chặt chẽ, đẹp như một viên ngọc. Vớí những ý tưởng hoàn toàn mới lạ, khác hẳn với những bài thơ Đường xưa cũ, có thể nói đây là một trong những bài "thơ trăng" đẹp, lạ nhất của văn học Việt Nam".

Dịch nghĩa:

     Quỳnh Hải đêm rằm tháng giêng

Đêm rằm tháng giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời.
Vầng trăng vẫn đẹp như xưa, không hề thay đổi.
Cả một bầu trờì xuân rơi xuống, nơi cửa ngõ nhà ai?

Chỉ có ánh trăng đêm nay tỏa sáng khắp nẻo Quỳnh Châu xa xôi ngoài nghìn dặm  này
Nơi quê hương Hồng Lĩnh, chẳng còn nhà cửa, anh em  ly tán .
Đầu đã bạc, càng giận cho ngày tháng trôi mau.
Cảm động biết bao, giữa lúc cùng đường, ngươi (trăng) từ xa xăm vẫn tới thăm

Nơi chân trời góc biển, bạn (trăng) đến cùng ta chia nhau buồn vui những ba mưoi năm rồi.

Chú thích:

1/. Quỳnh Hải tức Quỳnh Châu thuộc trấn Sơn Nam xưa, nay là huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, quê vợ của Nguyễn Du. Năm 1786, sau khi Nguyễn Khản thất lộc, Nguyễn Du lánh nạn về Quỳnh Côi ở nhà anh vơ là Đoàn Nguyễn Tuấn ở xã Hải An (lúc này Lê Chiêu Thống chưa chạy sang Trung Quốc).

2/. Nguyên tiêu: rằm tháng giêng âm lịch, nguòi Tàu làm lễ cúng kiếng rộn rịp.

3/. Thuyền quyên: chỉ dáng đẹp đẻ dễ thương. Nói chung chỉ người lẫn vật nhưng quen dùng chỉ người phụ nữ . Ở đây chỉ mặt trăng.

4/.Hồng Lĩnh: Núi ở Nghệ An. Nguyễn Du có chính quán ở Hà Tỉnh.
  Bản Dich của : Quách Tấn
Rằm tháng giêng trăng vàng lai láng,
Nghìn xưa không đổi dạng thuyền quyên.
Quỳnh Châu muôn dặm đoàn viên,
Một trời xuân hứng xuân riêng nhà nào?
Cảnh Hồng Lĩnh biết bao ly tán!
Bạc mái đầu ngày tháng đổi thay.
Đường cùng mừng thấy nhau đây,
Phương trời lận đận tuổi đầy ba mươi.

  Bản Dịch của Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh

Trăng sáng đầu xuân toả ngập tràn,
Bao giờ trăng chẳng nhạt thuyền quyên.
Một trời xuân hứng nhà ai lạc,
Muôn dặm Quỳnh Châu nguyệt sáng ngần.
Hồng Lĩnh không nhà huynh đệ vắng,
Bạc đầu đa hận tháng ngày nhanh.
Đường cùng trăng vẫn còn soi đến,
Góc biển chân trời, ba chục năm.
Phạm Trọng Chánh 
 
Bản Dịch của Nguyễn Cang.
     Quỳnh Hải Đêm Rằm Tháng Giêng

Trăng sáng nguyên tiêu sân vắng người
Trăng xưa không đổi vẻ xinh tươi
Trăng treo xuân đến rơi ngoài ngõ
Muôn dặm Quỳnh Châu dạ rối bời
Hồng Lĩnh tan nhà huynh đệ tán
Bạc đầu thêm hận tháng ngày trôi
Đường cùng bạn đến vui mừng gặp
Góc bể chân trời, đã mấy mươi!
Nguyễn Cang
 
 



1 nhận xét:

GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG - Huyền Không Đạo Hữu

GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG   Con cháu Lạc Hồng mãi khắc mang Công ơn Quốc Tổ thật vô vàn. Bắc bình, trang sử dài oanh liệt Nam tiến, núi sông đẹp vẻ...