Đức QUÁN THẾ ÂM (Tiếng Phạn là अवलोकितेश्वर ), đọc đúng là QUÁN THẾ ÂM
nghĩa là "Đấng quán chiếu âm thanh của thế gian", là một vị Bồ Tát
hiện thân lòng từ bi của tất cả chư Phật.
Được miêu tả trong nhiều nền văn hóa khác nhau, cả thân nam lẫn nữ giới, Quan
Thế Âm là một trong những vị Bồ Tát được tôn kính thờ phụng rộng rãi nhất trong Phật giáo Đại Thừa , cũng như không chính thức trong Phật giáo Nguyên Thủy.
Tên nguyên bản
tiếng Phạn của vị Bồ tát này là Avalokiteśvara. Tên tiếng Hán thì Quán
Thế Âm Bồ Tát (觀世音菩薩) được phiên dịch từ
tên tiếng Phạn này, "Avalokiteśvara Bodhisattva". Vị Bồ Tát này
thường được mô tả dưới nhiều dạng thân nam hay nữ, và cũng có thể được biết đến
với tên gọi đơn giản là Quan Âm, hay Phật Bà Quan Âm.
Trong thời Tam
Kỳ Phổ Độ, là Phổ Độ Lần Thứ Ba hay Đạo Cao Đài của Đức Chí Tôn, Đức Quán Thế
Âm Bồ Tát được thờ trên tượng Thiên Nhãn, ngự trên tòa sen như là vị đại diện
cho Đức Phật Thích Ca lãnh lịnh Đức Chí Tôn trong Tam Trấn Oai Nghiêm mà Ngài
là Nhị Trấn. Nhứt Trấn là Đức Lý Đại Tiên Trưởng (Lý Thái Bạch), Tam Trấn là
Đức Quan Thánh Đế Quân. Ngài là một vị Nữ Phật, nhưng còn mang danh Bồ Tát vì
Ngài còn nhiệm vụ cứu độ chúng sanh. Theo quan niệm của Phật giáo Tây Tạng,
Ngài hóa thân mình vào vua Đạt Lai Lạt Ma, vua cai trị xứ Tây Tạng nên các vị
Đạt Lai Lạt Ma truyền tiếp được xem là các vị Phật sống, hóa sinh của Đức Quán
Thế Âm Bồ Tát. Ngài có một hiện thân gồm 11 cái mặt, 1000 cánh tay, 1000 con
mắt, 108 hồng danh. Ngài ngự trên đền Polata nơi kinh đô Lhassa, xứ Tây Tạng.
Trong Luật Tam Thể, Bát Nương có giáng cơ dạy
rằng: “Dưới quyền của Phật Mẫu có Cửu Vị
Tiên Nương trông nom về cơ Giáo Hóa cho Vạn linh, còn ngoài ra có hằng hà sa số
Phật trông nom về cơ Phổ Độ mà Quan Thế Âm Bồ Tát là Đấng cầm đầu. Quan Thế Âm Bồ Tát ngự tại
Cung Nam
Hải, ở An Nhàn Động, còn Cung Diêu Trì thì ở tại Tạo Hóa Thiên”.
Theo các kinh sách còn truyền lại, Đức
Quán Thế Âm Bồ Tát có 33 kiếp giáng trần, khi thì làm nam nhi; khi thì làm
thiếu nữ, khi thì giáng sanh nơi gia đình cao sang quyền quí; khi lại giáng
sanh nơi gia đình nghèo nàn khổ cực; khi thì làm Đạo sĩ khi thì làm Tỳ kheo. Có
hai kiếp làm phụ nữ được đời truyền tụng đến ngày nay. Đó là: Kiếp thứ 10,
giáng trần là nàng Thị Kính ở nước Cao Ly (Hàn Quốc), tu hành đắc đạo, là Quan
Âm Thị Kính. Kiếp chót Ngài giáng làm Công chúa Diệu Thiện ở Ấn Độ, cũng tu
hành đắc đạo tại chùa Phổ Đà Sơn (Nam Hải) gọi là Quan Âm Diệu Thiện.
Theo Phật giáo Tây Tạng, các vị Đạt Lai Lạc Ma là hiện thân của Đức Quán Thế Âm
có nhiệm vụ cứu nhân độ thế và dẫn truyền Phật giáo Tây Tạng.
Ngày lễ Vía Đức Quán Thế Âm Bồ Tát
được tổ chức trọng thể trong Đạo Cao Đài. Đó là ngày 19 tháng 2 Âm Lịch
hằng năm.
Tại
sao chọn ngày 19-2 Âm lịch là ngày
Vía Đức Quan Thế Âm?
Đó là: Vào kiếp sanh
tại Ấn Độ, Đức Quan Thế Âm sanh vào làm Công chúa con vua Linh Vưu, nước Hưng
Lâm, một tiểu quốc của Ấn Độ. Vâng lệnh Ơn Trên, Công chúa Diệu Thiện đã đi tu
trên núi Phổ Đà Sơn, đắc đạo, sau 9 năm tịnh thiền, đạt pháp. Ngài đắc thành
chánh quả vào ngày 19 tháng 2, được
chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến chúc mừng và xưng tụng vị Bồ Tát vừa đắc đạo.
Ngài ngự trên tòa sen và xưng là Quan Thế Âm Bồ Tát. Do đó, ngày 19-2 Âm lịch được chọn là ngày lễ
Vía hàng năm của Ngài.
Đức Phạm Hộ Pháp Thuyết Đạo tại Đên Thánh đêm 18-2 năm Kỷ Sửu (1949) nhân lễ Vía Đức Quan Thế Âm Bồ Tát có dạy như sau:
“Hôm nay là ngày Vía Đức Quan Âm Bồ Tát,
Bần Đạo đã thường nói: Nơi cửa thiêng liêng hằng sống, Đức Quan Âm Bồ Tát là
một Đấng ở trong gia tộc sang trọng oai quyền hơn hết. Cái nguyên căn của Đức
Quan Âm Bồ Tát do nơi pháp thân của Từ Hàng sản xuất. Quan Âm đến thời đó chỉ
rõ cho chúng ta biết nguyên căn của mình, Quan Âm là cái thời gian của luật tạo
Càn Khôn thế giới, ấy là một chơn linh rất cao trọng đó vậy, cũng như Đức Lý
Thái Bạch là một chơn linh của ánh sáng. Hào quang Thái Cực khi đã hiện ra tức
nhiên bóng đèn chúng ta ngó thấy khối lửa có ánh sáng kia tức nhiên là Đức Lý
Giáo Tông.
Đức
Quan Âm Bồ Tát đã cầm quyền nhứt thống oai nghiêm chẳng cần luận thuyết, cả
thảy cùng đều biết cái quyền oai của Ngài vĩ đại như thế này, nhứt là phái nữ
nên để ý bài giảng nầy cho lắm. Vả chăng, thời gian chúng ta, sẽ nói thời gian
mà thôi, chúng ta phải kiên nhẫn và từ hòa, nếu chúng ta hấp tấp hay lật đật,
thì chẳng hề khi nào chúng ta để thời gian đến trước mặt chúng ta đặng.
Chơn linh của Người tức nhiên thể tánh
của Người, chứng tỏ rằng: một Đấng đã có 52 kiếp ở trong trái địa cầu 68 nầy,
và có đảm nhận trọng trách lớn lao hơn hết, là buổi trái địa cầu nầy nó chưa có
thoát xác của nó, là nó đầu kiếp lụng lại cho tới đệ tứ chuyển ngày nay. Đức
Quan Âm Bồ Tát đã cầm quyền điều khiển trong Càn Khôn Vũ Trụ nầy từ thử đến giờ
đã 52 kiếp.
Ngài đã đầu thai thế gian nầy mấy kiếp,
vì có tánh đức từ hòa và tinh thần đạo pháp mà thôi, tỷ như Bạch Vân Hòa
Thượng, Bạch Vân là ai? Bạch Vân là Ngài, ngày nay Ngài ở trong cửa Đạo, trong
một cơ quan trọng yếu của Tam Kỳ Phổ Độ nầy.
Bạch
Vân Hòa Thượng kiếp trước là Đức Quan Âm Bồ Tát đầu kiếp ở bên nước Tàu
trước, rồi mới đầu kiếp ở bên xứ Việt Nam, ta kêu là Thanh Sơn Đạo Sĩ tức nhiên
là Trạng Trình đó vậy, Thanh Sơn Đao sĩ dầu kiếp bên Pháp là Ralagode Bourgall,
52 kiếp có một kiếp trọng hệ có thâm tình với nòi giống Việt Nam ta hơn hết,
chúng ta có hạnh phúc lắm, mới được Ngài đầu kiếp ở trong nước hai lần. Lần thứ
nhứt đầu kiếp làm người đàn bà tức nhiên Thị Kính, chúng ta đã biết Quan Âm là
ai rồi. Bởi vậy cho nên buổi Tam Kỳ Phổ Độ nầy Đức Chí Tôn đã chọn lựa một Đấng
cao trọng cho đến mặt địa cầu 68 nầy, có lẽ chúng ta đều biết danh Ngài hết,
nhứt là Ngài lựa chọn một Đấng có thâm tình với nòi giống chúng ta hơn hết, cái
tánh đức từ hòa yêu ái của Ngài, chúng ta đừng kiếm Đức Quan Âm đâu xa hơn là
Thị Kính. Kiếm cái đức Thị Kính thế nào, thì tánh đức trạng thái của Quan Âm như
thế ấy, tánh đức của Ngài là từ hòa nhẫn nhục, hiền lương, ân tha mọi điều oan
khúc, chịu nổi thắng nổi thời gian là Đức Quan Âm. Đức Quan Âm chơn linh của
Ngài là thời gian cho nên tánh đức của Ngài không bao giờ thối tâm ngã lòng hay
bật rật, gấp rút, lật đật. Bà là người điềm tỉnh, bởi thế cho nên Bà đầu kiếp
người ta vu oan đủ mọi điều, nhưng tánh đức từ hòa nhẫn nại của Bà vẫn chịu nổi
đủ phương diện khổ não và oan khúc, chịu nổi thế tình ấy là một vị Trạng Sư đắc
lực và oai quyền nơi cảnh thiêng liêng hằng sống bảo vệ cả nữ phái vậy. Chúng
ta lấy làm hạnh phúc lắm Bần Đạo lấy làm mơ vọng và Bần Đạo nói quả quyết rằng:
rất hạnh phúc cho chơn linh kẻ nào được gia tộc của Ngài, gia tộc vinh hiển tối
cao tối trọng trên cửa thiêng liêng hằng sống, dầu bên cửa Thiên Oai hay là bên
Cực Lạc thế giới cũng thế.
Bần Đạo nói quả quyết rằng: Ngài
là một Đấng Phật Mẫu yêu ái hơn hết, tôn trọng hơn hết”.
* HT.Hồ Xưa sưu tầm từ nguồn tài liệu Đạo
Sử _____________________
bài rất hay
Trả lờiXóa