Thứ Bảy, 12 tháng 1, 2019

Vài bài thơ của thi nhân Chu Văn An gởi bạn cuối tuần ML


        XUÂN ÐÁN

Tịch mịch sơn gia trấn nhật hàn
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn
Bích mê thảo sắc thiên như tuý
Hồng thấp hoa sao lộ vị can
Thân dữ cô vân trường luyến tụ
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan
Bách huân bán lảnh trà yên yết
Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn
Chu Văn An *

SỚM MAI  ĐẦU  XUÂN
Ngày nhàn hạ trên non lều vắng ,
Cửa trúc phên nghiêng chắn gió hàn .
Trời trong cỏ biếc ngút ngàn ,
Hồng dầm sương sớm chưa tan lệ tràn .
Thân tựa mây núi ngàn lưu luyến ,
Sóng lòng như cổ giếng lặng căm .
Hương phai trà nguội khói tan ,
Chim kêu trong suối mộng tàn giấc Xuân .
        
Mailoc phỏng dịch

Nguyệt Tịch Bộ Tiên Du Sơn Tùng Kính
                           Chu Văn An 

Hoãn hoãn bộ tùng đê, 
Cô thôn đạm ái mê. 
Triều hồi, giang địch quýnh, 
Thiên khoát, thụ vân đê. 
Túc điểu phiên thanh lộ, 
Hàn ngư dược bích khê. 
Xuy sinh hà xứ khứ, 
Tịch mịch cố sơn tê (tây). 


Dich Nghĩa:
Ðêm trăng dạo bước dưới rặng thông ở núi Tiên Du 

Lững thững dạo chơi trên đê tùng 
Làn mây nhạt che khuất làng hẻo lánh 
Triều xuống tiếng địch trên sông nghe xa vắng 
Trời rộng, mây là là ngọn cây 
Chim về tổ bay qua sương mát 
Cá gặp lạnh nhảy dưới khe trong 
Người thổi sáo đi đâu vắng? 
Để núi tây cũ thêm quạnh hiu. 
    ĐÊM TRĂNG TRÊN NÚI TIÊN DU
(1)
Trên đê tùng , dạo chơi  thong thả ,
Làn khói mờ che cả cô thôn .
Triều hồi, địch vẳng bến sông ,
Trời quang mây lượn ngàn thông la đà .
Chim xao động sương ngà đêm mát ,
Nước lạnh tanh cá quạt khe trong .
Tiếng sênh im bặt mênh mông ,
Núi xưa hiu quạnh hư không một màu .
                  Mailoc phỏng dịch
(2)

Lửng thửng trên bờ thông ,
Sương khói mờ cô thôn .
T
Triều lui tiếng sáo vẳng ,
Trời tạnh rừng mây lồng .
Sương rung chim lũ lượt ,
Cá lạnh quẫy khe trong .
Sênh ai vừa bặt tiếng ,
Non cũ quạnh trời không
           

Mailoc
Linh Sơn Tạp Hứng
                        Chu văn An
Vạn điệp thanh sơn thốc họa bình,
Tà dương đạm mạt bán khê minh.
Thuý la kính lý vô nhân đáo,
Sơn thước đề yên thời nhất thanh.

Dịch nghĩa
Muốn lớp núi xanh tụ lại như bức bình phong vẽ,
Bóng chiều nhạt dọi tới sáng nửa lòng khe.
Trong lối cỏ biếc, không người đến,
Thỉnh thoảng một tiếng chim thước kêu trong khói mù.

Dịch Thơ

Vịnh Cảnh Núi Chí Linh
(1)
Núi chập chùng tựa tranh xanh ngát
Nửa khe sâu nắng nhạt chiều tà.
Lối mòn vắng lặng người qua,
Kêu sương tiếng thước vọng xa từng hồi.
(2)
Trùng trùng núi biếc đẹp như tranh
Nhàn nhạt nửa lòng suối nắng hanh.
Cỏ biếc đường quanh người vắng ngắt,
Từng hồi thước quát xé trời thanh.

                   Mailoc

 Thanh Lương Giang

                          Chu văn An
Sơn yêu nhất mạt tịch dương hoành,
Lưỡng lưỡng ngư chu bạn ngạn hành.
Độc lập Thanh Lương giang thượng vọng,
Hàn phong táp táp nộn triều sinh.

Dch nghĩa
Một vệt bóng chiều vắt ngang sườn núi,
Dọc theo bờ sông, thuyền câu đi từng đôi một.
Đứng một mình trên sông Thanh Lương ngắm cảnh,
Gió lạnh vi vút, nước triều dâng lên.
Dịch Thơ:
    Sông Thanh Lương
Nắng chiều một vệt vắt lưng đồi,
Thuyền cá xuôi bờ cứ cặp đôi
Lặng ngắm Thanh Lương hồn lảng đảng,
Lao xao gió lạnh nước lên rồi.
       Mailoc

  Thôn Nam Sơn Tiểu Khế
                             Chu văn An

Nhàn thân nam bắc phiến vân khinh,
Bán chẩm thanh phong thế ngoại tình.
Phật giới thanh u, trần giới viễn,
Đình tiền phún huyết nhất oanh minh.

Dịch nghĩa
Thân nhàn như đám mây nhẹ bay khắp nam bắc,
Gió mát thổi bên gối, tâm tình để ngoài cuộc đời.
Cõi phật thanh u, cõi trần xa vời,
Trước sân, hoa đỏ như máu, một chiếc oanh kêu.

Dịch Thơ :
  Núi Thôn Nam Tạm Nghỉ
Thân như mây bềnh bồng nam bắc
Nửa gối trăng gió mát tâm an.
Thanh u cõi Phật, lánh trần,
Oanh kêu, hoa rỏ máu loan sân ngoài


Mailoc

Vọng Thái Lăng
                        Chu văn An
Tùng thu thâm toả nhật tương tịch,
Yên thảo như đài mê loạn thạch.
Ảm đảm thiên sơn phong cánh sầu,
Tiêu trầm vạn cổ vân vô tích.
Khê hoa dục lạc vũ ti ti,
Dã điểu bất đề sơn tịch tịch.
Kỷ độ trù trừ hành phục hành,
Bình vu vô tận xuân sinh bích.

 Dịch nghĩa
Cây tùng cây thu khoá kín trời sắp về chiều,
Cỏ non xanh rợn, như rêu che lấp những hòn đá ngả nghiêng.
Ngàn non ảm đạm, gió thổi càng thêm buồn,
Muôn thuở tiêu tan, mây không để lại dấu vết.
Hoa bên suối sắp rụng, mưa lất phất,
Chim ngoài đồng nội im tiếng, núi quạnh hiu.
Mấy lần dùng dằng, đi rồi lại đi,
Cỏ rậm bát ngát, sắc xuân xanh biếc.

 Dịch Thơ :
Trông Về Thái Lăng
 Thông giăng kín ngày thu sắp tắt,
Đá rêu phong xanh ngát cỏ rờn,
Ngàn non ảm đạm gió vờn,
Mây tan muôn thuở đâu còn dấu xưa.
Hoa suối rụng chiều mưa lất phất,
Bặt tiếng chim hiu hắt núi ngàn.
Dùng dằng cất bước mấy lần,
Đồng xanh bát ngát sắc xuân mơ màng.
           Mailoc

-- Chu Văn An 朱文安 (1292-1370) hiệu là Tiều Ẩn,tên chữ là Linh

Triệt, tên thụy là Văn Trinh. Tên thật là Chu An, được phong tước
Văn Trinh Công nên đời sau quen gọi là Chu Văn An. Ông người
làng Văn Thôn , xã Quang Liệt, huyện Thanh Ðàm (nay là huyện
Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội).

Sau khi thi đậu thái học sinh, Chu Văn An không ra làm quan, chỉ
ở nhà dạy học.Học trò theo học rất đông, trong số đó có Phạm Sư
Mạnh, Lê Quát.

Năm Khai Thái đời Trần Minh Tông ông mới nhận chức Quốc Tử
Giám tư nghiệp,dạy cho thái tử học.Ðời Trần Dụ Tông (1341-1369)
nhà vua mải mê chơi bời, bỏ bê việc nước, bọn quyền thần thì lộng
quyền,hà khắc,tham nhũng; Chu Văn An bèn dâng sớ xin chém bảy
tên nịnh thần, nhưng vua không nghe. Ông xin từ chức, lui về ở ẩn
tại núi Phượng Hoàng , làng Kiệt Ðặc , huyện Chí Linh . Ông mất
năm Thiệu Khánh thứ nhất. Ðời Trần Nghệ Tông (1370), được
vua làm lễ tế và đặt tên thuỵ là Văn Trinh.

Tác phẩm: Chu Văn An từng có những tác phẩm như: Thất trảm
sớ, Tiều ẩn thi tập, Tiều ẩn quốc ngữ thi tập, Tứ thư thuyết ước.
Nhưng cho đến nay mới chỉ tìm được 12 bài thơ chữ Hán chép trong Toàn Việt thi lục.

                                         Mailoc

(Ảnh: Đền Thờ Chu văn An ở Chí Linh-Hải Dương )

1 nhận xét:

MỪNG SINH NHẬT MUỘN - Đỗ Chiêu Đức Và Các Thi Hữu

                       Ân c ần t ạ l ỗi v ới thi nh ân,                    Sinh nh ật h ăm l ăm nh ạc  đ ã ng ân.                    Th ân c...