“..Hiện nay thế giới
không còn đối đầu về chủ nghĩa, tức là sự khác biệt về xây dựng quốc gia, xã
hội theo một mô thức chính trị nào đó - nhưng lại xuất hiện một sự đối đầu khốc
liệt giữa đúng-sai và thương-ghét, xuất phát từ tín điều - tức xây dựng quốc
gia, xã hội theo mô thức tôn giáo. Cuộc xung đột này có nguy cơ nổ ra “thánh
chiến” và có thể “thánh chiến” đã nổ ra rồi. Cuộc đối đầu này đang lan rộng
trên quy mô “quốc gia đối đầu với quốc gia” hoặc “nhiều quốc gia đối đầu với
nhiều quốc gia”. ... (ĐVB)
*
Không hiểu con người biết thương-ghét
tự bao giờ. Chắc chắn khi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương -ghét. Rồi khi còn chập chững
biết đi, chắc cũng chưa biết thương-ghét.
Thế rồi khi vào trường Mầm Non (Preschool) lúc ba tuổi chắc cũng chưa biết thương-ghét. Có lẽ con người bắt đầu
biết thương-ghét hay bộc lộ thương-
ghét khi vào trường Mẫu Giáo (Kindergarten) lúc năm tuổi chăng? Một số
thương-ghét do giáo dục mà có. Một số do nhồi sọ, tuyên truyền, đầu độc mà có.
Một số do biên cương, biên giới khác biệt mà có. Một số thương-ghét có thể do
tự nhiên mà có, mà Phật Giáo gọi là nghiệp lực của chúng sinh từ vô thủy
tới nay. Sự thương-ghét có thể được truyền từ đời này sang đời khác, thế hệ này
sang thế hệ khác. Chúng ta không những thù ghét người sống mà thù ghét luôn cả
những người đã chết và cả những người ở nơi xa lắc xa lơ mà chúng ta chưa hề
biết mặt. Sự thương-ghét của con người, nếu có hình thù, cả hư không vô tận này
chắc chứa cũng không hết. Chẳng hạn, ghét một người nhưng thù ghét luôn cả gia
đình, họ hàng hay cả nước người ta.
Yêu nhau yêu cả
đường đi.
Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng. (Tục Ngữ)
Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng. (Tục Ngữ)
Sau đây là
một số thương ghét, có thể do “bản chất” hay “bản tính” của con người và rất
“tự nhiên”. Tự nhiên theo nghĩa nó bộc lộ liền mà không cần lý trí can thiệp.:
1) Ghét bỏ cái gì xấu
xí. Thương quý cái gì đẹp đẽ. Đàn ông, đàn bà đẹp đẽ là nguồn mê đắm lớn
nhất của kiếp người. Con cái trong nhà, đứa xấu xí nhiều khi bị hắt hủi. Cây
trái thật ngon, nhưng trông bề ngoài xấu xí nhiều khi cũng không được ưa
chuộng.
2) Ghét bỏ cái gì héo
tàn. Trân trọng với cái gì tươi tốt. Hoa tươi trưng lên bàn thờ nhưng khi
héo rồi thì quăng vào thùng rác không thương tiếc.
3) Ghét sợ cái gì nhọn
sắc. Thích cái gì tròn trịa. Cho nên trong Phật Giáo hay dùng chữ “viên” để
chỉ sự hoàn hảo như: viên dung, viên mãn, viên giác.
4) Ghét màu sắc chói
lọi. Thích màu sắc dịu dàng. Màu sắc chói lọi làm chóa mắt người ta. Con bò
thấy màu đỏ (màu máu) là lao vào húc.
5) Ghét thói điểm
trang lòe loẹt. Thích lối điểm trang nhã nhặn. Trong hội họa, trường phái
sử dụng màu sắc của hoa rừng, thú rừng gọi là Trường Phái Dã Thú.
6) Ghét cái gì bề bộn.
Thương cái gì ngăn nắp. Một thành phố dù văn minh như thế nào đi nữa mà đường
phố nluộm thuộm, ngổn ngang, vẽ bậy lên tường thì cũng bị chê cười.
7) Ghét sợ cái gì bầy
hầy. Thích cái gì lành lặn. Vào siêu thị, nhìn một đống thịt bầy hầy, người
ta sợ. Nhưng cũng thịt đó, nếu được cắt và trình bày khéo léo thì người ta lại
thích.
8) Không ưa cái gì méo
mó, lệch lạc. Thích cái gì vuông vức cho nên người ta nói “Mẹ tròn con
vuông” là để chỉ chuyện bình an, tốt lành. Một món đồ dù rất tốt nhưng nếu bị
méo mó đi một chút, người ta cũng sẽ từ chối. Chiếc xe mới toanh, bị đụng móp
một chút cũng mất giá trị.
9) Ghét sợ cái gì tối
tăm. Ưa thích cái gì sáng sủa. Địa ngục thì tối tăm. Cung trời thì rực rỡ.
Khi tham dự đám tang, người ta mặc quần áo màu đen. Nhưng hiện nay các chiến
binh Hồi Giáo lại dùng màu đen làm biểu tượng cho ngọn cờ của mình. Màu đen
đang là màu ưa chuộng của thế kỷ, nhất là ở Trung Đông và Hoa Kỳ.
10) Ghét cái gì tàn
bạo. Kính trọng cái gì an lành.
11) Ghét cái gì ngông
cuồng. Thích cái gì vừa vừa phai phải.
12) Ghét chiến tranh.
Ưa chuộng hòa bình. Nhưng có rất nhiều người hay quốc gia thích chiến tranh,
rất thích chém giết mà người ta gọi đó là “diều hâu”, hiếu chiến, trong Phật
Giáo gọi là quỷ thần A Tu La.
13) Ghét lời nói dữ
dằn. Thích lời nói ôn hòa.
14) Ghét thói tự cao.
Ưa lời khiêm tốn.
15) Ghét và khinh miệt
lối sống ích kỷ. Quý trọng sự vị tha.
16) Ghét lời nói mỉa
mai. Thích lời nói ý tứ.
17) Ghét lời nói bịa
đặt. Thương mến người “Có sao nói vậy”.
18) Ghét thù lời nói
cay độc. Thích, ưa lời nói hiền hòa.
19) Ghét, khinh lời
nói đâm thọc. Kính trọng lời nói ngay thẳng.
20) Ghét khinh lời nói
chia rẽ. Kính trọng lời nói đoàn kết. Nhưng trên thế giới này cũng có rất
nhiều người thích lời nói chia rẽ, phổ biến lời nói chia rẽ, kích động hận thù.
21) Ghét điều gian dối.
Ưa điều chân thật.
22) Ghét thói lưu
manh, lường đảo. Quý, thích sự thật thà.
23) Ghét thói côn đồ.
Ưa kẻ hiền lành.
24) Ghét tham quan ô.
Kính trọng, quý mến, có khi lập miếu thờ các vị quan liêm chính.
25) Ghét thù bạo chúa.
Kính trọng vua hiền đức, có khi lập đền thờ.
26) Ghét bọn xu nịnh.
Mến kẻ trung thần.
27) Ghét kẻ phản quốc.
Yêu người ái quốc.
28) Ghét kẻ hại người. Quý kẻ cứu người.
29) Ghét kẻ phá hoại. Yêu người xây dựng.
30) Ghét kẻ gian dâm.
Thương người đoan chính.
31) Ghét kẻ phản bội.
Thương người trung tín.
32) Ghét kẻ phá giới.
Kính người trì giới.
33) Khinh kẻ xuất gia
mà còn bon chen thế tục. Kính người đạo hạnh.
34) Ghét kẻ nhố nhăng.
Thương người mẫu mực. Nhưng hiện nay một số quốc gia Á Châu cũng đang bắt chước
thói nhố nhăng của Âu-Mỹ. Nhố nhăng tại Âu-Mỹ lại là biểu tượng của “tự do tư
tưởng” và hình như càng nhố nhăng càng được người ta chú ý và thành công nhất
là ca sĩ và người mẫu. Sau vụ Chairlie Hebdo, Ô. Tony Blair nói rằng “Tự do
ngôn luận không có giới hạn” tức báo chí muốn chửi ai, thóa mạ ai cũng được.
35) Ghét kẻ trọc phú.
Quý kẻ thương người.
36) Ghét kẻ ăn chơi.
Thương người cần kiệm.
37) Khinh kẻ ăn bám.
Quý người tự lập.
38) Khinh kẻ lười
biếng. Quý người chăm chỉ, siêng năng
39) Ghét kẻ khinh
người. Thương người khiêm tốn.
40) Ghét thói mánh
mung. Yêu mến tánh thật thà.
41) Ghét thói gian tà.
Ưa người ngay thẳng.
42) Khinh ghét lối làm
việc vô lương tâm. Kính trọng kẻ làm việc có lương tâm.
43) Ghét lối làm việc
vô trách nhiệm. Thương người làm việc cẩn trọng.
44) Ghét thói kiêu
căng, tự cho mình là “lãnh đạo”, “number one”, “số một” hay “ông nội” người ta.
Quý kẻ biết điều.
45) Và còn cả ngàn vạn thứ thương-ghét khác nữa, không sao
kể hết.
Cái mà mình
thích thì thương. Thương thì quý trọng, có khi hy sinh cả thân mệnh
để bảo vệ. Thử đụng tới con chó mà mình thương thử xem. Có khi giết người ta
luôn không biết chừng.
Còn ghét… nhẹ
lắm thì chửi rủa, nói xấu, xa lánh, kỳ thị (không chơi, không giao tiếp), xua
đuổi. Mạnh hơn là đốt phá nhà của người ta, giết hại cả gia đình người ta.
Những vụ thanh lọc chủng tộc, giết cả trăm ngàn người là chuyện thường.
Đối phó và
giải quyết chuyện đúng-sai, thương-ghét là chuyện hàng ngày của thế tục. Nhưng
có rất nhiều nơi, trong quá khứ lịch sử cũng như hiện nay, tôn giáo đã can dự
vào để giải quyết, khiến giáo luật trở thành luật pháp quốc gia.
Đối với các
tôn giáo thờ Thần Linh, đúng-sai, thương-ghét phải phân biệt rõ ràng và trong
kinh điển, họ không ngần ngại tuyên bố loại trừ, tiêu diệt hoặc giết hại những
gì “đáng ghét”, chẳng hạn ra lệnh giết chết những kẻ ngoại đạo/dị giáo, tức
những người theo một tôn giáo khác với tôn giáo của họ. Sự thương-ghét này đã
gây thảm họa cho nhân loại trong một thời gian rất dài.
Một số trong
rất nhiều hình ảnh về các tòa án xử người dị giáo thời Trung Cố ở Châu Âu.
Thế nhưng đối
với Phật Giáo thì có khác. Phật Giáo không bao giờ dung chứa sự kỷ thị, loại
trừ, ghét bỏ. Phật Giáo là đạo của bao dung, như biển cả có thể dung chứa cả
ngàn con sông đổ vào, như một mẹ có thể nuôi được trăm con. Điều đó không có
nghĩa là Phật Giáo “ba phải” hoặc không ý thức được thế nào là đúng-sai,
phải-trái. Trong Kinh Viên Giác Đức Phật nói rằng, “Một hạt mưa trong thế giới
ta-bà này Như Lai đều biết.” Thế nhưng do lòng thương xót chúng sinh, Đức Phật
dạy đức Từ-Bi-Hỉ-Xả. Hơn thế nữa, bản thể của vũ trụ này vốn từ Nhất
Nguyên/Nhất Thể rồi tách ra thành Nhị Nguyên/Âm Dương/Lưỡng Cực. Cái Tối
cái Sáng, cái Sinh cái Diệt, cái Đúng cái Sai,
cái Phải cái Trái, cái Thương cái Ghét cùng tồn tại và
lấn đuổi nhau. Ngàn đời trước đã có đúng-sai và ngàn đời sau đúng-sai vẫn
tồn tại.
Khi Đức Phật
chưa ra đời, con chim đã ăn con sâu. Khi Đức Phật ra đời con chim vẫn ăn con
sâu. Khi Đức Phật thành đạo và chuyển pháp luân, con chim vẫn ăn con sâu. Và
khi Đức Phật nhập diệt, con chim vẫn ăn con sâu. Điều đó có nghĩa là “thế
giới này vẫn y như thế” vẫn vận hành bởi “vô minh và tham dục”. Hình
tướng thế giới này có đổi thay, nhưng tham-dục và bạo lực vẫn còn nguyên đó.
Những cái tốt không bị hủy diệt đã đành mà những cái xấu, cái đáng ghét, cái
bất ưng cũng không bao giờ bị hủy diệt. Do đó, không thể có chuyện toàn thể thế
giới này chỉ có Thương và cũng không thể chỉ toàn có Ghét.
Tình cảm Thương hay Ghét, Đúng hay Sai đều do
“nhân duyên giả hợp mà thành”. Khi mình thích và thương thì tội ác tày trời
cũng thấy tốt. Còn khi mình đã ghét thì chuyện tốt, đúng cũng thấy sai.
Chẳng hạn, cũng là cái xấu, nếu đứng ngoài thì chúng ta thấy đó là xấu. Nhưng
nếu là “đồng bọn” thì chúng ta lại thương và yêu thích cái xấu đó. Một bọn trộm
cướp ngồi trong quán nhậu, hả hê cụng ly, khoe khoang thành tích vừa ăn cắp
được một chiếc xe hơi chẳng hạn …mà không hề biết đó là hành vi xấu xa. Thấy
một người đàn bà bị ném đá tới chết, dù phạm bất cử tội gì, chúng ta đều rùng
minh, thương xót. Thế nhưng ở tại các quốc gia như Saudi Arabia, Pakistan, A
Phú Hãn, Ấn Độ…ở một vài nơi, đám đông reo hò, và cả bố mẹ cũng rất “hân hoan”
khi người ta ném đá tới chết người con gái của mình chẳng may lỡ dại hoặc không
nghe lời bố mẹ trong vấn đề hôn nhân.
Do đó, nếu
tất cả trái đất này toàn là những người ác hay toàn là quỷ dữ thì: trộm cướp,
hiếp dâm, giết người, gian trá, đâm cha chém chú, lừa thầy phản bạn, thác loạn…
đều được coi là “đạo đức” hay “phẩm hạnh” đúng như lời Phật dạy ngài Bồ Tát
Thanh Tịnh Tuệ như câu chuyện kể dưới đây.
Chính vì giác
ngộ được như thế cho nên Chư Phật, chư vị Bồ Tát ba đời hiện tại, quá khứ, vị
lai, đều đều vượt lên trên chân lý, đúng-sai, tức không bị chân lý hay
đúng-sai, thương-ghét ràng buộc. Đó là giải thoát, là an nhiên tự tại. Và khi
đã chứng đắc được điều này thì gọi là cái Tâm Viên Giác hay cái Tâm Bình Đẳng,
Không Động.
Chúng ta hãy nghe Đức Phật dạy Ngài Phổ Nhãn Bồ Tát: “Thiện nam tử! Đã thành tựu được tính giác
thì Bồ Tát không bị pháp buộc, không cầu pháp cởi, không nhàm chán sinh tử,
không yêu mến Nát-bàn, không kính người trì giới, không ghét người phá giới,
không trọng người học lâu, không khinh người mới học, Là vì sao? Tất cả là tính
giác. Ví như con mắt sáng thấy rõ cảnh trước mắt. Cái sáng ấy tròn khắp, không
có yêu, không có ghét. Vì sao thế? Cái thể của sáng không có hai, không có
ghét, không có yêu.”
(Kinh Viên
Giác, Cụ Huyền Cơ dịch năm 1951)
Và Đức Phật
dạy Ngài Thanh Tịnh Tuệ Bồ Tát: “Thiện
nam tử! Tất cả chướng ngại tức là giác hoàn toàn. Niệm chính hay niệm không
chính đều là giải thoát. Lập được pháp hay phá pháp đều là Nát-bàn. Trí tuệ hay
ngu si cũng là Bát Nhã. Bồ Tát hay ngoại đạo thành tựu các pháp đều là Bồ-đề.
Vô minh, chân như không khác cảnh giới. Giới, định, tuệ và dâm, nộ, si đều là
phẩm hạnh. Chúng sinh, quốc độ đều đồng một pháp tính. Địa ngục, cung trời đều
là tịnh độ. Có tính, không tính đều thành Phật đạo. Tất cả phiền não hoàn toàn
giải thoát. Bể tuệ pháp giới soi rõ các tướng cũng như hư không. Đấy gọi là
tính giác tùy thuận của Như Lai.”
(Kinh Viên
Giác, Cụ Huyền Cơ dịch năm 1951)
Hiện nay, thế giới không còn đối đầu về chủ nghĩa, tức là sự khác
biệt về xây dựng quốc gia, xã hội theo một mô thức chính trị nào đó - nhưng lại
xuất hiện một sự đối đầu khốc liệt giữa đúng-sai và thương-ghét xuất phát từ
tín điều - tức xây dựng quốc gia, xã hội theo mô thức tôn giáo. Cuộc xung đột
này có nguy cơ nổ ra “thánh chiến” và có thể “thánh chiến” đã nổ ra rồi. Cuộc
đối đầu này đang lan rộng trên quy mô “quốc gia đối đầu với quốc gia” hoặc
“nhiều quốc gia đối đầu với nhiều quốc gia”.
Bên cạnh đó,
hiện nay tại Hoa Kỳ, tội phạm do thù ghét (hate crime) gia tăng, mặc dù luật
pháp rất nghiêm minh trong việc xử trị tội phạm này. Thống kê của Viện Khảo Sát
PEW cho biết số người chết từ sau vụ Khủng Bố 9/11 vì nhóm Da Trắng Là Ưu Việt
(White Supremacy) và các nhóm cực đoan lớn hơn là do nhóm Hồi Giáo quá khích.
Tội phạm “hate crime” xuất phát từ lòng thương-ghét: Ghét cái màu da không
giống với màu da của mình. Ghét cái tôn giáo không giống với tôn giáo của mình.
Ghét cái lối để râu tóc không giống với râu tóc của mình. Ghét lối ăn mặc,
trang phục không giống với lối trang phục của mình. Ghét lối sống hay văn hóa
không giống với văn hóa của mình. Sau cùng…cho rằng Da Trắng là thông minh, ưu
việt hơn tất cả các sắc dân khác. Chỉ Da Trắng mới đáng sống, còn Da Màu thì
không đáng sống hoặc chỉ làm nô lệ.
Ngày nay
thương-ghét do khác biệt tôn giáo hoặc cùng tôn giáo nhưng khác hệ phái, đang
là cội nguồn của biết bao tội ác, gây bất an trong xã hội và cho cả thế giới
nói chung.
Trong cuộc
sống hàng ngày, là Phật tử khiêm tốn, nương theo giáo lý của Đức Phật, để tạo
an vui cho chính mình, cho cộng đồng và xa hơn cho đất nước, chúng ta:
-Không làm
những gì bị loài người ghét bỏ. Chẳng hạn như chúng ta không gian dối.
-Cố gắng làm
những gì mà mọi người thương mến. Chẳng hạn như chúng ta học đức tính thật thà.
-Nhưng chúng ta
không bao giờ kỳ thị, ghét bỏ, loại trừ, thậm chí giết hại những người đang làm
những chuyện bị người đời khinh ghét. Nhưng những người làm chuyện bị loài
người khinh ghét sẽ gặp quả báo hay nhân quả. Thí dụ: Giết người, buôn bán,
chuyển vận ma túy bị tử hình. Lưởng gạt, gian dối bị tù tội. Vu không bị bồi
thường. Tắc trách bị mất chức. Hung hăng thì có nhiểu kẻ thù. Tham vọng thì
chuốc nhiều đau khổ. Hiếu chiến thì đất nước lâm nguy, tan nát…Những quả báo
này không phải lỗi của chúng ta hay do chúng ta làm ra.
Xin nhớ cho: một khi đã
có lòng thương-ghét, đã khởi móng tâm thù ghét ai, tôi bảo đảm rằng khi có điều
kiện chúng ta sẽ tạo ác nghiệp. Chẳng hạn khi đất nước yên bình thì
không thấy gì. Nhưng nếu một cuộc đảo chính hay loạn ly xảy ra, người ta có thể
vác dao kiếm, gậy gộc, súng ống đi giết hại, để trả mối thâm thù trước đó - có
khi ba, bốn chục năm. Cứ nhìn vào những cuộc đảo chính, lật đổ chế độ trên toàn
thế giới thì sẽ thấy.
Cũng là một chuyện “đáng ghét” - chẳng hạn như một cô ca sĩ
ăn mặc quá lộ liễu, bẩn mắt trên sân khấu. Nếu chỉ phê bình rồi bỏ qua hoặc tha
thứ thì không có gì. Nhưng nếu tất cả cùng xúm lại chửi rủa, lên án và đòi hành
động thì sẽ thành chuyện lớn. Nếu như tại các quốc gia Hồi Giáo, cô ca sĩ này
có thể bị ném đá tới chết. Do đó “Tâm bình, thế giới bình” là như vậy.
Không phân biệt, không kỳ thị, không
thương-ghét, không loại trừ ai… là cốt tủy và sinh mệnh của Đạo Phật. Giáo
lý của Đức Phật đang được trân quý trên toàn thế giới cũng vì những đức tính
đó. Đánh mất những đức tính này thì Phật Giáo cũng giống như những tôn giáo
khác. Do đó, dù ai có “nói ngả nói nghiêng” rằng Phật Giáo yếm thế, tiêu cực
nhưng “ta đây vẫn vững như kiềng ba chân”. Chính cái đức tính bị gán cho là
“tiêu cực” hay “yếm thế” đó đang là “ngọn đuốc trí tuệ” cho nhân loại ngày hôm
nay. Còn cái gọi là “tích cực” tự hào là mình biết “thương-ghét ” đã gây thảm
họa cho nhân loại hơn 2000 năm nay và còn dài dài mãi về sau này.
* Đào Văn Bình
(California
ngày 4/1/2016)
* Hồ Xưa sưu tầm và chuyển phổ biến________________________________
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét