Nguyễn Du
Thanh
Hiên thi tập 清軒詩集 là tập thơ chữ Hán đầu tiên của Nguyễn Du (阮攸;
1765–1820, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên). Thi tập này được ông
viết vào những năm trước 1802, để nói lên tình cảnh, tâm sự của mình
trong hoàn cảnh lênh đênh, lưu lạc hoặc trong thời gian ẩn náu ở quê
nhà, lúc gia đình đã sa sút theo đà sụp đổ của chế độ Lê - Trịnh.
Sau đây là hai bài thơ U CƯ của ông được làm trong khoảng thời gian lưu lạc ở quê vợ ở Thái Bình mà ta tạm gọi là...
Mười năm gió bụi: (1786 - khoảng cuối 1795 đầu năm 1796): tức năm Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà, cho đến năm Nguyễn Du trở về quê nhà ở Hồng Lĩnh.
Mười năm gió bụi: (1786 - khoảng cuối 1795 đầu năm 1796): tức năm Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà, cho đến năm Nguyễn Du trở về quê nhà ở Hồng Lĩnh.
* Bản chữ Hán cổ của bài U CƯ (1):
幽居其一 U CƯ kỳ I
桃花桃葉落紛紛, Đào hoa đào diệp lạc phân phân,
門掩斜扉一院貧。 Môn yễm tà phi nhất viện bần.
住久頓忘身是客, Cửu trú đốn vong thân thị khách,
年深更覺老隨身。 Niên thâm cánh giác lão tùy thân ,
異鄉養拙初防俗, Dị hương dưỡng chuyết sơ phòng tục,
亂世全生久畏人。 Loạn thế toàn sinh cửu úy nhân.
流落白頭成底事, Lưu lạc bạch đầu thành đễ sự,
西風吹倒小烏巾。 Tây phong xuy đão tiểu ô cân.
阮攸 Nguyễn Du
Chú Thích :
* Lạc Phân Phân : là rơi lả tả, nếu là mưa thì là Mưa lất phất.
* Yễm :là Đóng. Tà Phi: là cánh cửa xéo, là cánh cửa xiên xẹo, chỉ nhà nghèo.
* Đốn Vong : là Quên bẵng đi.
* Lão Tùy Thân : là Cái già nó đeo đuổi theo thân mình.
* Dị Hương : là Quê hương lạ, chỉ ở xứ người.
* Dưỡng Chuyết : là Nuôi nấng cái vụng về, ý chỉ giả ngây giả dại.
* Tây Phong : Gió tây là gió mùa thu.
* Tiểu Ô Cân : Cái khăn thâm(đen) nhỏ vấn trên đầu.
Nghĩa Bài Thơ :
Ở Nơi Vắng Vẻ
Hoa đào cùng lá đào rơi lả tả, ta đóng cái cửa xiêu vẹo để nhốt một sân nghèo nàn lại. Ở nơi xứ lạ lâu ngày ta cũng quên bẵng đi mình là người khách tha phương. Năm tháng càng chồng chất càng cảm thấy cái già luôn đeo đuổi bên mình. Ở nơi quê hương xa lạ nầy ta luôn giả ngây giả dại để đề phòng những đứa phàm tục tiểu nhân. Ở trong thời lọan lạc muốn bảo toàn mạng sống nên lâu dần gặp ai cũng thấy lo sợ. Đem thân lưu lạc đến bạc đầu mới ra nông nổi thế nầy. Đến đổi gió tây vừa vi vút thổi thì cái khăn thâm quấn đầu cũng sút ra rớt xuống !
Ở Nơi Vắng Vẻ
Hoa đào cùng lá đào rơi lả tả, ta đóng cái cửa xiêu vẹo để nhốt một sân nghèo nàn lại. Ở nơi xứ lạ lâu ngày ta cũng quên bẵng đi mình là người khách tha phương. Năm tháng càng chồng chất càng cảm thấy cái già luôn đeo đuổi bên mình. Ở nơi quê hương xa lạ nầy ta luôn giả ngây giả dại để đề phòng những đứa phàm tục tiểu nhân. Ở trong thời lọan lạc muốn bảo toàn mạng sống nên lâu dần gặp ai cũng thấy lo sợ. Đem thân lưu lạc đến bạc đầu mới ra nông nổi thế nầy. Đến đổi gió tây vừa vi vút thổi thì cái khăn thâm quấn đầu cũng sút ra rớt xuống !
Diễn Nôm :
Ở Nơi Hẻo Lánh (1)
Tơi bời hoa lá đào rơi rụng,
Nghiêng nắng chiều buông khép cửa nghèo.
Quên bẳng lâu ngày thân đất khách,
Buồn trông năm hết cái già đeo.
Quê người giả dại e tai tiếng,
Thời lọan giữ mình sợ họa theo.
Lần lữa bạc đầu nên đến nỗi...
Khăn ô lỏng rớt gió tây vèo !
Lục Bát :
Lá hoa đào lả tả rơi,
Cửa nghiêng xiêu vẹo khép lơi sân nghèo
Quên thân đất khách bao chiều,
Năm chồng tháng chất già đeo đẵng sầu.
Giả ngây xứ lạ bấy lâu,
Sợ người ly loạn chỉ cầu sống yên,
Bạc đầu nên nỗi ưu phiền,
Gió tây thổi rớt khăn niền đầu thâm.
Lá hoa đào lả tả rơi,
Cửa nghiêng xiêu vẹo khép lơi sân nghèo
Quên thân đất khách bao chiều,
Năm chồng tháng chất già đeo đẵng sầu.
Giả ngây xứ lạ bấy lâu,
Sợ người ly loạn chỉ cầu sống yên,
Bạc đầu nên nỗi ưu phiền,
Gió tây thổi rớt khăn niền đầu thâm.
* Bản chữ Hán cổ của bài U CƯ (2):
幽居 其二 U CƯ kỳ II
十載風塵去國賒 Thập tải phong trần khứ quốc xa,
蕭蕭白髮寄人家 Tiêu tiêu bạch phát ký nhân gia.
長途日暮新遊少 Trường đồ nhật mộ tân du thiểu
一室春寒舊病多 Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa
壞壁月明蟠蜥蜴 Hoại bích nguyệt minh bàn tích dịch,
荒池水涸出蝦蟆 Hoang trì thủy hạc xuất hà ma.
行人莫誦豋樓賦 Hành nhân mạc tụng Đăng Lâu Phú,
强半春光在海涯 Cưởng bán xuân quang tại hải nha !
阮攸 Nguyễn Du
Chú Thích :
* Thập Tải :là Mười năm. Quốc ở đây không phải là Nước mà là chỉ Quê hương. Xa : là Xa xôi.
* Tiêu Tiêu Bạch Phát : là Tóc bạc hoa râm.
* Hoại Bích : Tấm vách hư, bức tường đổ.
* Tích Dịch : Chỉ chung các loại Thằn lằn, Tắt kè, rắn mối, kỳ nhông.
* Hà Ma : Từnầy còn đọc là HÀM MÔ : chỉ chung ếch nhái ểnh ương.
* Đăng Lâu Phú : Bài phú tỏ lòng nhớ quê nhà của Vương Xán, một trong Kiến An thất tử. Vương Xán tránh nạn đến ở nhờ Lưu Biểu ở Kinh Châu, lên lầu thành Giang Lăng, nhớ nhà mà làm bài phú này.
* Cưởng Bán : là Qúa nửa, là Hơn phân nửa.
Nghĩa Bài Thơ :
Bỏ quê hương ra đi suốt mười năm trường trong gió bụi, Đầu đã bạc lốm đốm rồi, mà còn phải ăn nhờ ở đậu nhà người ta. Hoàn cảnh hiện
nay của ta là cảnh đường đi còn dài mà trời đã về chiều, lại không tìm ra được bạn
mới ! Giữa mùa xuân trong căn nhà lạnh ngắt nầy, nhiều bệnh cũ lại tái phát. Dưới ánh trăng sáng, cắc kè rắn mối leo trên vách đà đổ nát. Trong ao
hoang, nước đã cạn khô, chỉ còn thấy ếch nhái loi ngoi. Trong hoàn cảnh nầy, ai
xa quê hương chớ nên đọc bài phú Đăng lâu. Ôi, Quá nửa đời người, mà ta vẫn còn
ở nơi chân trời góc biển nầy !
Diễn Nôm :
Ở Nơi Hẻo Lánh (2)
Mười năm gió bụi nước non nhà,
Tóc bạc lơ thơ gởi xứ xa.
Ngàn dặm chiều tà người lát đát,
Một nhà xuân lạnh bệnh là đà.
Trăng soi vách đổ thằn lằn chắc...
Nước cạn ao hoang ếch nhái oa...
Chớ đọc Đăng Lâu thân viễn xứ,
Tuổi xuân qúa nửa đã trôi qua !
Tóc bạc lơ thơ gởi xứ xa.
Ngàn dặm chiều tà người lát đát,
Một nhà xuân lạnh bệnh là đà.
Trăng soi vách đổ thằn lằn chắc...
Nước cạn ao hoang ếch nhái oa...
Chớ đọc Đăng Lâu thân viễn xứ,
Tuổi xuân qúa nửa đã trôi qua !
Lục Bát :
Mười năm xa xứ phong trần,
Hoa râm đầu bạc gởi thân ở nhờ.
Đường chiều bè bạn lơ thơ,
Một nhà lạnh lẽo bơ phờ bệnh xưa.
Thạch sùng trăng chiếu vách thưa,
Ếch nhái nước cạn đợi mưa ao nhà.
Đăng Lâu Phú chớ ngâm nga,
Tuổi xuân qúa nửa người xa ven trời !
Mười năm xa xứ phong trần,
Hoa râm đầu bạc gởi thân ở nhờ.
Đường chiều bè bạn lơ thơ,
Một nhà lạnh lẽo bơ phờ bệnh xưa.
Thạch sùng trăng chiếu vách thưa,
Ếch nhái nước cạn đợi mưa ao nhà.
Đăng Lâu Phú chớ ngâm nga,
Tuổi xuân qúa nửa người xa ven trời !