Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2016

TÂM SỰ KẺ ĐI SỨ: PHẠM TÔNG MẠI (范宗邁 )



TÂM SỰ KẺ ĐI SỨ: PHẠM TÔNG MẠI (范宗邁 )
( Nguyn Cang)


M bài:

Trong lch s Vit Nam, t thi lp quc cho ti các triu đi Đinh Lê Lý Trn... vua nước ta thường c người đi s sang Tàu đ triu cng hoc nhn phong chc. Cuc hành trình tht gian nan nguy him mà kết qu thì tht khiêm tn, mang v cho triu đình nước ta nhng sc ch hoc danh hiu tên nước An Nam, tht ti thân cho người đi s và đau bun cho dân tc Vit Nam. Sau đây ta hãy phân tích bài "Bc S Ngu Thành" ca Phm Tông Mi đ hiu thêm ni lòng ca ông trong ln đi s đó:



Âm Hán Vit /  Phiên âm

使         Bắc sứ ngẫu thành

宿  Dã quán tằng kinh túc,
  Ngâm tiên cố thiểu lưu.
  Bạch vân đương hộ hiểu,
滿  Hoàng diệp mãn lâm thu.
  Đoạn nhạn hy gia tín,
  Đề viên tự khách sầu.

  Thử sinh hưu cánh vấn,   
  Hành chỉ nhiệm du du.

(范宗邁 )   (Phạm Tông Mại)   

Chú thích từ ngữ:

ngẫu ():( bộ "nhân" bên trái): tình cờ,không tính trước.

Dã (): đồng quê

tằng (): từng, đã trãi qua, đi qua.

tiên ():( bộ "cách"bên trái): cây roi, lấy roi mà quất.

thiểu (): ít, còn đọc là thiếu (nhỏ)

hiểu (): trời sáng, ban mai. Có bộ "nhật" bên trái chỉ mặt trời.

mãn (滿): (bộ "thủy" bên trái): đầy, ngập đầy, hết hạn.

đoạn (): đứt, dứt ( đoạn tình, đoạn nghĩa, đứt đoạn)

nhạn (): chim nhạn, vịt trời, (loài chim thường thiên di về mùa Thu khi sương xuống để tìm nắng ấm,vì thế nhạn để chỉ người đưa tin)

viên (): (bộ "khuyển"  bên trái): con vượn.

thử sinh (此生): đời nầy, kiếp nầy.

vấn (): hỏi (bộ "khẩu" ở giữa nghĩa là cái miệng để nói).

hưu canh vấn (休更問): đừng hỏi nữa.

nhiệm(): (còn đọc "nhậm") : nhận lãnh, gánh vác, mặc kệ.

du du (悠悠): xa xôi, mịt mù.

Sơ lược tiểu sử tác giả:

Ông làm quan dưới triều vua nhà Trần. Sanh và mất năm nào chưa rõ, nguyên họ Chúc ()là một họ thiểu số nên vua Trần Nhân Tông cho đổi thành họ Phạm lớn hơn. Tên cũ là cố () trùng với tên thầy học là Nguyễn Sĩ Cố ( )nên vua cho đổi thành Mại(). Phạm Tông Mại( ) còn gọi tắt là Phạm Mại( ),ông người làng  Kính Chủ , huyện Giáp Sơn, phủ Tân Hưng, nay là huyện Kim Môn, tỉnh Hải Dương; là anh em ruột với Phạm Ngộ. Dưới triều Trần Minh Tông ông có đi sứ sang Trung Quốc cùng với Nguyễn Trung Ngạn. Trong vụ án Trần Quốc Chẩn ông hết sức bênh vực cho ông nầy nhưng vua không nghe. Sau đó việc lỡ dở chứng minh ông đúng nên được vua khen. Tác phẩm còn lại có 5 bài thơ và 1 bài phú.




Dịch nghĩa:

        ĐI SỨ BẮC, NGẪU NHIÊN LÀM THƠ

Đã từng (ngủ) qua đêm trong những quán trọ đồng quê,

Chiếc roi quất gió, chỉ ghé tạm đây chốc lát.

Buổi sáng mây bay ngang trước cửa

Lá vàng (giờ) đã ngập rừng thu

(Trên trời, một) cánh nhạn lẽ loi, tin nhà thưa thớt

Vượn kêu, lòng khách tự sầu

Cuộc đời nầy, thôi đừng hỏi nữa

Đi hay dừng, mặc cho số mệnh mịt mù.

Phân tích và nhũng lời bình của Nguyễn Cang:

Vấn đề đi sứ sang Trung Quốc của các quan ngày xưa như thế nào, tài liệu lịch sử ghi lại rất ít hay rất sơ sài mà kết quả thật ít ỏi, đôi khi người đi sứ còn bị mất mạng do thái độ hung hăng của một số vua quan Trung Quốc. Những lời tường thuật của các quan đi sứ hầu hết bị thất lạc nên ngày nay khó tìm được tài liệu có giá trị đầy đủ. Ta có thể kể vài trường hợp tiêu biểu sau đây còn ghi lại trong sách vở như phái đoàn của Nguyễn Đăng Đạo đi sứ kéo dài từ tháng giêng năm Đinh Sữu (1697) đến tháng tư mùa hạ năm Mậu Dần (1698) đạt được kết quả là đem được quốc thư tới Yên Kinh nói rõ việc lộn xộn ở biên giới với vua Thanh, để đòi lại vùng đất thuộc hai động Tuyên Quang và Hưng Hóa bị quan thổ ty nhà Thanh chiếm trái phép, điều mà trước đây các sứ bộ khác của nước ta không làm đựơc. Tiếp theo sau còn có nhiều cuộc đi sứ khác như phái đoàn của Đinh Nho Hoàn và Nguyễn Công Hãn. Riêng Đinh Nho Hoàn thì có ghi chép và làm thơ trên cuộc hành trình. Nội dung chỉ gởi gấm niềm tâm sự trung hiếu với vua với nước và nỗi nhớ vợ con, cha mẹ già yếu mà không đề cập tới lịch trình làm việc khi tiếp xúc với vua quan Trung Quốc. Cuộc hành trình xử dụng đường thủy lẫn đường bộ qua nhiều vùng đất khác nhau rất hiểm trở nơi đất khách. Đại cương đi sứ là như thế, bây giờ ta trở lại bài thơ Bắc Sứ Ngẫu Thành của Phạm Mại.

Hai câu 1-2:

Dã quán tằng kinh túc,
Ngâm tiên cố thiểu lưu.
Mô tả cuộc hành trình hối hả trên đất khách nhưng không kém vất vả. Phái đoàn nhiều lần ngủ trọ trong các quán đồng quê hẻo lánh ở dọc đường nên lần nầy không dám dừng chân lâu sợ trễ nãi công việc. Hình ảnh "chiếc roi quất gió" cho ta thấy tác giả cầm roi vừa quất gió vừa ngâm thơ cho vơi bớt nỗi lo âu.

Hai câu 3-4:

Bạch vân đương hộ hiểu,
Hoàng diệp mãn lâm thu.

Tác giả đã vượt khỏi ải Nam Quan từ lâu, sang hẳn bên đất Tàu rồi! Ngước nhìn trờì thấy mây bay ngang qua cửa sổ, ngó ra sân thấy lá vàng ngập lối. Hình ảnh mây bay, lá vàng rơi ngập sân vào mùa thu là hình ảnh quen thuộc trong thi ca Việt Nam, tạo nguồn cảm hứng cho thi nhân, chạnh lòng nhớ nhà, nhớ quê hương. Nhà thơ Lưu Trọng Lư trong bài Tiếng Thu cũng đã mượn hình ảnh mùa thu để nói lên nỗi buồn nhớ người yêu, tuy khác với Phạm Tông Mại về hoàn cảnh và đối tượng nhưng có chung một tâm sự:

Em không nghe mùa thu

Dưới trăng mờ thổn thức?

Em không nghe rạo rực

Hình ảnh kẻ chinh phu

Trong lòng người cô phụ?

Hai câu 5-6:

Đoạn nhạn hy gia tín,
Đề viên tự khách sầu.   

Tả nỗi buồn lữ thứ, giờ đã xa rồi, quê hương chìm tong khói lam chiều nhà ai đó. Cánh nhạn lẻ loi, tượng trưng cho nỗi cô đơn trong lòng người (ẩn dụ sâu sắc, tuyệt vời, gợi cảm xúc thương  cho người đi. Cánh nhạn lẽ loi kia chính là hình ảnh của tác giả bơ vơ lạc lõng giữa xứ người, mang trách nhiệm nặng nề nhưng không biết thành bại ra sao? Sự cô đơn không đáng sợ bằng mạng sống của mình, liệu có bảo toàn được hay không? Làm thân của một nước nhược tiểu, đi sứ mà không có một luật lệ nào bảo vệ tánh mạng. Ôi! thật tộị nghiệp cho thân phận kẻ đi sứ thời bấy giờ). Nỗi buồn càng quay quắt dâng cao khi vắng tin nhà, chốn cũ không biết bây giờ ra sao? Ngàn trùng diệu vợi cách xa. Đêm đêm vọng lại tiếng chim kêu, làm chùng lòng lữ khách, buồn hiu hắt! Lại thêm tiếng vượn hú nghe như cắt da, đứt ruột. Trong ca dao Việt Nam có câu tả cảnh lấy chồng xa, nằm nghe tiếng vượn hú mà chạnh lòng, thương cho thân gái dặm trường: Má ơi đừng gả con xa/ Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu?!


 Trong bài thơ Đăng Cao của Đỗ Phủ cũng có những cảm xúc tương tự khi mượn hình ảnh con vượn, trong mùa thu, cất tiếng kêu trong đêm trường, gợi buồn khôn xiết:

登高 (Đăng cao)



風急天高猿嘯哀

渚清沙白鳥飛回

無邊落蕭蕭下

不盡長江滾滾來

萬里悲秋常作客

百年多病獨登臺。

Phiên âm:

Phong cấp, thiên cao, viên khiếu ai,

Chử thanh, sa bạch, điểu phi hồi.

Vô biên lạc diệp tiêu tiêu há,

Bất tận trường giang cổn cổn lai.

Vạn lý bi thu thường tác khách,

Bách niên đa bệnh độc đăng đài. 

Dịch nghĩa:

Gió thổi gấp, trời cao, vượn kêu não nùng,

Vũng nước trong, cát trắng, chim bay trở về.

Vô vàn lá rụng ào ào không dứt,

Sông dài nước cuồn cuộn chảy vô tận.

Xa nhà vạn dặm, vẻ thu hiu hắt, mãi làm khách xứ người,

Đau ốm suốt đời, một mình lên đài.

Hai câu 7-8:

Thử sinh hưu cánh vấn,   
Hành chỉ nhiệm du du.

Xa nhà nếu chỉ buồn không thôi thì không có gì đáng nói đằng nầy tác giả lại than cho số phận của mình, chán nản tuyệt vọng, mặc cho dòng đời đưa đẩy. Đi sứ là một vinh dự cũng là một trách nhiệm của một ông quan, nhưng tại sao tác giả lại tỏ ra bi quan thất chí như đi vào hang hùm, ổ rắn? Vì vua Trung Hoa tự cho mình là thiên tử, vua của vua, chẳng coi thiên hạ nước khác ra gì, thậm chí còn cho là man di mọi rợ nữa. Đôi khi bị chạm tự ái họ có thể ra lịnh sát hại tại chỗ. Điển hình là cuộc đi sứ của Mạc Đỉnh Chi. Ông nầy bị bọn quan lại, tôi tớ nhà Nguyên bày đủ trò cạm bẫy để miệt thị ông và vua nước ta. Ỷ thế kẻ cả họ làm điều sằng bậy. Phải kể thêm sứ thần Giang Văn Minh: Dưới đời vua Lê Thần Tông (1619-1643), Giang Văn Minh được cử sang Trung Quốc để nạp cống và cầu phong. Vì muốn làm nhục sứ thần và vua quan nước ta nên vua nhà Minh mới nhắc lại việc Mã Viện dựng cột đồng ở Giao Chỉ, bằng một vế đối:

Đồng trụ chí kim đài dĩ lục

(Cột đồng đến nay rêu đã phủ xanh)

Giang Văn Minh ứng khẩu tiếp vế sau:

Đằng Giang tự cổ huyết do hồng

(Sông Bạch Đằng Giang từ xưa máu còn đỏ)

Giang Văn Minh muốn nhắc cho vua nhà Minh nhớ ba lần đi xăm lược nước  ta đều bị thảm bại trên sông Bạch Đằng.

Vua nhà Minh lấy làm hỗ thẹn, tức giận ra lịnh giết Giang Văn Minh. Cả triều đình nước Nam thương tiếc người anh hùng dám hy sinh mạng sống để bảo vệ uy tín và danh dự vua quan nước Nam. Còn vua Thần Tông ca ngợi: "Đi sứ không làm nhục quốc thể,thật anh hùng kim cổ".

Dịch thơ:

     Đi sứ Bắc ngẫu nhiên làm thơ

Quán quê từng ngủ lại

Roi, thơ tạm dừng đây

Cửa sớm giăng mây bạc

Rừng thu lá ngập đầy

Nhạn lẽ loi, tin vắng

vượn hú sầu chơi vơi

Tương lai đừng hỏi nũa

Ra sao phó mặc đời!

(Nguyễn Cang)



Bản dịch 2/ (của V.Ng)

Nấn ná quán bên đường,

Hành trình e trễ nãi;

Nơi đây tạm dừng cương,

Quất roi trong gió bãi

2.

Ngang đầu mây núi bay,

Rừng thu mưa lá úa,

Vượn hú sầu sớm mai,

Tin nhạn đâu không thấy.

3.

Ngàn trùng sao diệu vợi,

Yên kinh mờ thấy đâu.

Tử sinh sao số mệnh,

Bàn chi chuyện mai sau.

(V. Ng)

Nguyễn Cang, 25/8/2016

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ỚT HIỂM - Thơ Anh Khờ Và Bài Họa Của Các Thi Hửu

Bài Xướng ỚT HIỂM Ớt hiểm con con quả thật cay! Mằn sơ chút xíu... đỏ môi mày Sưng mồm xé lưỡi... thôi thì chạy... Nóng mặt phình mang... ch...