Chuyện viết bằng tưởng tượng, để tặng người tôi quen, còn hay mất, trong
những ngày lang thang trốn buồn ở Đà Lạt 1970
Cũng để tặng đám bạn cùng khóa QGHC, cùng vào tù và cùng làm đời lại từ
đầu sau 1975
Trời
Tùng Nghĩa buổi sáng, sắp giữa trưa mà sương vẫn còn giăng giăng một màu đục
nhạt, không mù mờ lắm, có chút nắng sáng ở phía nào đó lưng chừng, từ mấy ngọn
đồi cao xa xa lùa về, qua khung cửa sổ phi cơ, cũng còn thấy được người qua
người lại đâu đó, lưa thưa ngoài hành lang dãy nhà chờ đợi của phi trường Liên
Khương. Xuống chuyến bay sớm từ Sài Gòn ra, vắng khách, khỏi cổng, nhìn qua bên
kia, cạnh một gốc cây thông cao rậm lá, Cần, anh tài xế, đang đứng nói chuyện
với ai đó, thấy Khiêm, lật đật băng qua đường, mặc cho mấy chiếc xe lô ta- xi
đen bóp còi in ỏi, Cần nắm lấy túi xách, cười trừ vả lả “ông phó ông phó”, thời cuộc dạo này, không mấy yên ổn lắm, nhất là
sau ngày mất Tân Cảnh Dakto, Ben Het Lệ Khánh bắc Kontum rồi di tản bỏ Đức Cơ
Lệ Minh tây Pleiku giữa hè 1972, ra Tuyên Đức, về nhận chức vụ Phó quận trưởng
quận Đơn Dương chưa “nóng đít” thì
tin từ người dì, ở Cần Đước nhắn lên, mẹ đau nặng, phải vào nhà thương tỉnh cứu
cấp, bệnh tình xem ra có phần nguy kịch, được phép đặc biệt gấp, trung tá Hậu,
hối thúc Khiêm sắp xếp đi cho sớm, chuyện ở quận ông sẽ giao lại cho bác trưởng
ban công vụ lo liệu vài ngày, may mà mấy chuyến bay, đi về Đà Lạt Sài Gòn của
hảng hàng không Việt Nam vẫn còn như thường ngày, nếu không đi xe đò không biết
chừng nào mới tới, xe chạy đường Đức Trọng Đơn Dương, lúc có lúc không, cho nên
Cần, là lính nghĩa quân, nhà ở xã Đạ Ròn, cách quận lỵ không mấy xa, chi khu
cho qua gác văn phòng quận hai ba năm nay, còn trẻ, chừng hai mươi ngoài, ăn
nói dễ thương, vui tính, học hành trễ, lỡ dỡ, rớt tú tài một gì đó rồi thôi,
được sự đồng ý của trung tá Hậu, Khiêm đem Cần qua làm tài xế kiêm cận vệ, vài
hôm sau ngày nhận chức, Cần “nhứt định
một hai khi ông phó trở ra”, sẽ lái xe jeep đến đón ở phi trường rồi hai
người tắt về Thạnh Mỹ, quận lỵ, qua con đường đất đỏ ở ngã ba Liên Hiệp, nơi có
con suối nhỏ chảy dọc về ngang qua bên hông chợ Tùng Nghĩa.
Vừa kịp đến chỗ xe đậu, mưa tới bất chợt,
từng mảng lẻ loi, lất phất, Cần nhanh nhẩu giới thiệu Nhu, em bà con, làm y tá
ở trạm y tế xã nhà Đạ Ròn, trên người khoát cái áo len màu hồng phấn, khá đẹp, tóc
đen tuyền chấm tới vai, đứng chờ từ khi nãy, giờ này xe đò về Đà Lạt không còn
nhiều, phải chờ hơi lâu, cô cũng về tới ngã ba Liên Hiệp, nghe Cần lăng xăng
xoa tay, tả oán “mình cũng về ngang đó,
nên em bảo cô ta chờ, thôi ông phó cho cô quá giang làm ơn, để cô chờ cũng tội,
vả lại mưa tới nơi rồi”, Khiêm tức cười gật đầu, Cần kéo cái mui vải bạc
màu xanh ô liêu, dài ra, che kín băng sau thêm đôi chút, Nhu khép nép lên, nhìn
ra phía trước, nói nhỏ “dạ cám ơn ông
phó”, xe chạy khỏi Tùng Nghĩa một khoảng xa, Khiêm nhìn qua, Cần vừa lái xe
vừa gục gặc đầu khoan khoái. Xe ngừng bên lề đường, trước sân căn nhà sàn gỗ cũ
mái tôn, nằm cheo leo, thoai thoải trên cái dốc nhỏ chạy dài xuống con suối
phía dưới không xa, Nhu xuống xe, một lần nữa nói tiếng “cám ơn ông phó” rồi đi vô, đám con nít của mấy căn nhà bên cạnh,
túa ra, chỉ chỏ chiếc xe jeep, nói nói cười gì đó, xe chạy khỏi ngã ba về Đơn
Dương rồi, Khiêm tò mò quay lại, Nhu vẫn còn đứng ở ngoài cửa nhìn theo.
Xế trưa, trên đường từ K’Đơn về, sau khi
họp với hội đồng xã về chuyện tìm người thay thế bác hội viên, từ nhiệm vì lo dời
về Lâm Đồng, Khiêm ghé thăm nhà Cần cho biết và cũng nhân đó, tạt qua chào hỏi
nhân viên bên trụ sở xã Đạ Ròn, cách Thạnh Mỹ không xa bao nhiêu, cái xã mà từ
ngày về đây tới giờ, anh chưa có dịp tới mặc dù đã có gặp hai ông xã trưởng và
chủ tịch hội đồng xã hôm bàn giao nhận chức. Xe ra khỏi trụ sở xã, Cần lái
chậm, chỉ tay về phía bên kia đường, nằm lọt giữa hàng thông cao rậm lá, là
trạm y tế, Cần cười cười “ông phó nhớ cô
Nhu không, cái cô quá giang về ngã ba Liên Hiệp đó, thôi sẳn đây mình quẹo vào
chơi rồi về”, cũng bẳng khá lâu, hơn hai ba tháng gì rồi, thấy trời còn sớm,
không có mấy ngày nắng tốt như hôm nay, thêm nữa, xem ra Cần có vẻ muốn vậy,
Khiêm gật đầu, Cần nhấn ga mạnh hơn, trên xứ lạ “Ai hát giữa rừng khuya ” này, “thêm
bạn bớt thù” bề gì thì cũng tốt hơn là cứ nơm nớp sợ “ma trành ma xó”, nhân viên trạm có chừng ba bốn cô, Nhu là người
đang tạm “xử lý thường vụ” trưởng
trạm, chờ trên quận tìm người, thấy Khiêm, ai nấy xem ra đứng ngồi ngay ngắn
giữ lễ, Khiêm rão một vòng quanh sân, Nhu khép nép đi bên cạnh, hỏi qua hỏi lại
dăm câu, Cần đứng huyên thuyên gì đó với mấy cô khác ở một góc sân, thỉnh
thoảng nhìn theo, gục gặc đầu che miệng cười, ra về, Nhu theo tận xe tiễn,
giọng e ấp dịu dàng “cám ơn ông phó ghé
thăm”.
Hôm xuống trạm y tế Đạ Ròn, thăm một trong
mấy người trưởng ấp người Thượng của xã, bị quân du kích Việc cộng phục kích,
khi dẫn toán nhân dân tự vệ đi tuần đêm khá xa ngoài rừng thông, giáp ranh xã
Ka Đô, vết thương ở đùi, không nặng lắm nhưng cần băng bó vài ngày, gặp lại
Nhu, lần này cô có vẻ tự nhiên và nói nhiều hơn, ba bốn người đàn bà Thượng,
ngồi chờ ờ hàng ghế bên cạnh cửa ra vào, thấy Khiêm gật đầu chào, ai nấy lật
đật đứng dậy, cười đáp lễ hai tiếng “ông
phó”, Cần không thấy đi theo sau, mà loanh quanh nói qua nói lại, nhỏ to gì
đó với Nhu, thỉnh thoảng cả hai lén nhìn về phía Khiêm khi anh đang hỏi han ông
trưởng ấp trên giường bệnh ở góc phòng trong, trời cũng đã trưa, không còn ai
chờ, Khiêm chào mấy cô từ giã, Nhu đi theo bên cạnh ra xe, bên trong có tiếng
ông trưởng ấp vọng ra “cám ơn ông phó tới
thăm tôi” thì cũng là lúc Khiêm quay qua cô nàng cười “cám ơn Nhu và mấy cô đã lo cho ông trưởng ấp mấy bữa nay”, Nhu khẻ
gật đầu, không nói gì, rời trạm y tế Khiêm theo Cần về nhà ăn cơm trưa, cũng để
làm quen với gia đình anh ta sớm hơn như đã hứa.
Ba
mẹ Cần, gốc Huế, vào Đà Lạt lập nghiệp từ lúc lấy mới lấy nhau, ông bị tật
ở tay phải và chân đi hơi khập khễnh, không học hành nhiều nên lam lũ tay chân
đủ việc ba bốn năm, rồi về Đạ Ròn, mở một tiệm buôn bán tạp hóa nhỏ, lấy hàng
từ Tùng Nghĩa, Lâm Đồng, không giàu có nhưng cũng “đồng ra đồng vô”, nuôi gia đình, Cần còn hai đứa em một trai một
gái, đứa học Bùi Thị Xuân, thằng kia Trần Hưng Đạo, hỏi ra thì, bác gái, mẹ Cần
là chị của ruột mẹ của Nhu, Cần cũng học Trần Hưng Đạo, Nhu cũng Bùi Thị Xuân,
anh thi rớt tú tài một, xin vào lính nghĩa quân cho gần nhà thay vì đi hạ sĩ
quan Đồng Đế, ôm mộng học thêm, kiểu thí sinh tự do nhưng chưa “khăn gói trường thi” lần nào, dì của
Cần, tức là mẹ của Nhu, có chồng là người thượng gốc Ra Đê, được đồng hóa sĩ
quan cấp úy, khi bỏ hàng ngủ FULRO về với quân đội VNCH, phuc vụ tiểu đoàn Địa
phương quân Tuyên Đức, không may bị tử thương trong những năm 1963, Nhu đậu tú
tài một, nhưng gia cảnh không khá, mẹ một mình vất vã nuôi ba bốn miệng ăn, em
còn nhỏ, nên xin vào học khóa y tá do ty y tế Tuyên Đức tuyển, rồi được bổ
xuống Đạ Ròn hơn hai năm nay, theo Cần nói lại, hình như cũng đang học hành gì
đó để thi tú tài hai, nghe lời chị, mẹ của Cần, và với số tiền bà giúp, vốn
trước biết may vá chút đỉnh, mẹ Nhu dọn ra ngã ba Liên Hiệp, cất tạm bợ căn nhà
sàn nhỏ ngay cạnh sát đường đi Đà Lạt, ngó qua khu trồng bông cải trắng súp –
lơ của ai đó, nhận may quần, sửa áo lặt vặt cho người trên xóm dưới, đứa em gái
vừa đi học vừa học may, do khéo tay nên không bao lâu cũng đã phụ được, quần áo
đặt may, bà con vừa ý, ai nấy cũng tới, thay vì phải xuống dưới Tùng Nghĩa chi
cho xa xôi, gia đình giờ xem ra tàm tạm đủ cơm ăn áo mặc, đi làm trên Đạ Ròn,
chỗ ăn chỗ ở ngay trong trạm y tế, lại gần nhà Cần nên đở lo, hai ba tuần đón xe
đò nhỏ, chạy đường Đơn Dương Tùng Nghĩa, ngã Liên Hiệp về thăm mẹ thăm em cũng
đủ vui lắm rồi.
Gần Tết, lấp xấp tàn đông, nhưng trời cao
nguyên này vẫn cứ sương mù giá rét, nắng cũng có đó nhưng lại “về mau đi sớm”, suốt mấy ngày liền,
ngày nào cũng vậy, cứ tới khoảng ba bốn giờ chiều là người hâm hấp nóng, khó
chịu chừng hai ba tiếng đồng hồ rồi thôi, đôi khi ho hen nhưng có lần lại khạc
ra chút máu, ban đầu cứ nghĩ là bị “cảm
gió trái trời” gì đó nhưng cuối cùng chịu hết nổi, đành phải qua gặp anh Lân,
bác sĩ trưởng chi y tế quận, khám tới khám lui, ông cho biết Khiêm nám phổi
nhẹ, phải chích thuốc “streptomicine”
năm sáu ngày mới khỏi bệnh, để lâu không tốt, hôm sau Lân sẽ đi phép cả tuần nên
chích ngay cho Khiêm một mũi ngày hôm đó, đưa thêm năm sáu hủ nữa, Khiêm đem
về, tùy ý, muốn chích ở bệnh viện quận hay nhờ ai cũng được, Lân nhắc tới nhắc lui, cười cười, nhớ
phải “lo chích thuốc cho đủ nghe ông”,
trở lại văn phòng, chưa kịp ngó qua mớ giấy tờ trên bàn, nghe bên ngoài có
tiếng Cần dạ dạ gì đó, thì trung tá Hậu đẩy cửa bước vào, hai người nói qua nói
lại chuyện bệnh tình ra sao cũng như việc chích thuốc năm sáu ngày, trước khi
bỏ ra cửa, vừa đi vừa quay lại, Khiêm theo sau, trung tá Hậu gục gặc đầu “yên tâm đi, tôi sẽ giới thiệu người chích thuốc
cho ông, người này gặp, chắc chắn ông chịu liền, hoa khôi của quận nghe, trong
quận mình, hổng dễ gì được cô ta để mắt tới đâu”, cả hai cùng cười, Cần
đứng ngoài sân nhìn vào, không nghe gì nhưng cũng cười theo.
Ngồi
trong văn phòng nhìn ra, ngoài sân còn đôi chút nắng hiếm hoi của những
ngày cuối đông, trời vừa quá xế trưa, rừng thông xanh lá loáng thoáng sương mù,
chợ quận vắng tanh, lác đác năm ba cô gái Thượng, cúi đầu bên nhau đi, về hướng
Đạ Ròn, gùi trên lưng không thấy nặng, mấy con chó hoang nhà ai đó, mệt nhọc,
chán nản nhìn theo, chiếc xe đò cũ kỹ chạy về Ban Mê Thuộc nặng nhọc ở lưng
chừng dốc đường, phun khói màu sương, không thấy người lơ xe, đánh đu phía sau
như ngày thường, thấy Khiêm đứng bên cửa sổ, mấy anh lính nghĩa quân thay giờ
gác đi ngang, cúi đầu chào “ông phó”
rồi hấp tấp bỏ đi, khuất sau dãy chòi canh, cuối cổng rào chi khu quận đâu đó,
Nhu không còn đến chích giùm thuốc, nhưng hình như Khiêm thấy ngày qua ngày, mình
cứ “ngóng ngóng chờ chờ” cái gì đó, Khiêm
bỗng dưng thèm còn nghe được mấy tiếng “ông
phó ráng giữ gìn sức khỏe”, thèm tiếng máy xe Honda nổ chầm chậm ngoài sân rào,
thèm tiếng ai đó trả lời người lính gác “dạ
em đến chích thuốc cho ông phó”, từ
một chút nhớ để mà quên nào đó của những năm tháng cũ, cảm giác bây giờ không
khác gì của buổi đầu , cái thèm để nhớ, ngày Khiêm và Hằng quen nhau trong sân
trường tỉnh năm đệ nhất, hai người có nhiều và thật nhiều “con đường tình ta đi hay vắng con tàu sân ga buồn héo hắt”, nhưng
cái bằng tú tài hai mà Khiêm có được, sau mùa thi thức trắng chong đèn, không
đủ, để giữ lại cuộc tình đầu, vui buồn như nhau, chỉ vì ba tiếng “con nhà nghèo”.
Nhớ tới Cần, Khiêm cười một mình, sau khi
trung tá Hậu ra về hôm đó, Cần không cần “vòng
vo tam quốc” cho Khiêm biết, người mà trung tá nói chính là Nhu, chứ không
ai khác, anh sẽ nhờ Nhu xuống chích thuốc cho, cô ta không dám từ chối đâu, chuyện
này chuyện nhỏ mà, từ Đạ Ròn xuống quận lỵ không hơn ba cây số, đường đi tương
đối khá yên, ít khi có du kích địa phương quấy rối như mấy xã xa khác như Tu
Tra, Ka Đô, Quảng Lập, nên chạy xe Honda cũng chẳng bao lâu, nhân viên xã lên
xuống đi về hà rầm, đúng như lời trung tá Hậu, Nhu đẹp thật, cái đẹp của hai
giòng máu “kinh thượng”, đêm nằm một
mình, chập chờn không ngủ trọn, không phải vì tiếng súng, tiếng bom đâu đó mà
vì sự náo nức chờ lần chích thuốc hôm sau, Nhu cũng không khác gì hơn, sau mấy
ngày gặp mặt, giờ cứ thấy buồn vu vơ, có cái gì đó “nhung nhung nhớ nhớ” là lạ trong nuối tiếc “phải chi hay ước gì”, đêm cũng dài hơn những ngày tháng trước, chờ
sáng nhưng chờ để mà đứng bên khung cửa
trạm, nhìn hướng quận lỵ xa xa trong màn sương, ở đó, có gì không, chỉ có mỗi
một mình Nhu biết, mấy cô làm chung thì thầm, thấy mà thương, tụm nhau cười “à thì ra vậy”.
Chiều
ba mươi tết, “phố núi” vắng tanh,
mai rừng không thấy nhiều, lưa thưa vàng đâu đó ở vài ba ngã đường, người qua
người lại hối hả, vội vã đi về làng trên buôn dưới, văn phòng đóng cửa, nghỉ
tết vài ngày, Cần lái xe Honda tới đón Khiêm về nhà, ăn bữa cơm cúng rước ông
bà với gia đình như anh ta đã mời từ mấy ngày trước, cả nhà xúm xích lăng xăng
tiếp đải, hỏi han hết chuyện này tới chuyện nọ, câu nào mở đầu cũng “một ông phó hai ông phó”, Cần cho biết,
Nhu đã về Liên Hiệp chiều hôm qua, ăn tết, nhờ anh gởi tặng Khiêm, cụm hoa Lan
rừng vàng tím mọc trên miếng vỏ cây, do chị bệnh nhân người Thượng có chồng đi
rẫy trên rừng tìm giùm như là món quà tết, ra về, cả nhà theo ra đứng trước
cửa, mẹ Cần nhìn trời nói trống không “tiếc
quá phải chi có con Nhu ở đây thì vui biết mấy”, Khiêm nhìn bà cười mà
không nói gì, chở Khiêm về lại quận, Cần nhìn cụm hoa Lan Khiêm cầm trên tay,
tủm tỉm “có thêm nó, ông phó đở buồn ”,
rồi chạy xe đi, không buồn quay lại, chợt Khiêm buột miệng “hoa đẹp mà người cũng đẹp”, Khiêm đem treo cụm hoa Lan trên tường
bằng ván, nơi căn nhà anh ở, nằm xế ngoài phía góc rào chi khu, đằng sau dãy
giao thông hào, ngay cái bàn viết, bên cạnh cửa sổ ngó ra chợ quận, nhiều khi
ngồi một mình nhìn, anh tự cười thầm vì đã có lần chợt mơ một chút đời “Bích Câu Kỳ Ngộ”.
Rồi, không lâu sau, dưới cái nắng chiều nấn
ná chưa đi, thỉnh thoảng người ta thấy Khiêm ngồi nói chuyện bên Nhu trước hiên
nhà, ngoài góc sân, chiếc xe Honda đầy bụi đỏ như phấn một mình nằm yên, chờ
chủ và cũng từ hôm đó, Khiêm không thường ăn cơm chợ, sáng nào như sáng nấy,
trên Đạ Ròn xuống văn phòng quận làm, lúc nào Cần cũng khệ nệ tay xách tay
mang, nào cơm nào canh hai bữa, cái thì mẹ nấu cái thì em Nhu. Họ có nhau với ngần
thương yêu giản dị đó, cô nữ sinh Bùi Thị Xuân ngày nào, giờ đã có đôi, không
còn lẻ loi một mình, bước vội bước vàng trong những chiều mưa mù sương trên phố
cao, quên rồi, không còn lầm lũi đếm từng cành thông gãy vụn nằm, trơ trọi cô
đơn bên lề con dường dốc đầu chợ Hòa Bình, Đà Lạt có Nhu có Khiêm, cũng “thác Cam Ly hồ Than Thở”, cũng “Đồi thông hai mộ, thung lũng tình yêu”,
cũng tách cà phê nóng ở “cà phê Tùng”,
bên nhau ngồi nhìn hạt bụi sương rơi, lăng tăng trên đám hoa “păng-xê” rực tím
một màu dọc con đường Phan Đình Phùng ngoằn ngoèo, quanh co đồi dốc, mơ chuyện
ngày mai, nhiều may hơn rũi như những người yêu nhau khác, ở đây, người quen
bạn bè mỗi khi nói về ông phó Khiêm, không ai quên tên cô ý tá Nhu của trạm y
tế Đạ Ròn.
Cuối
tháng hai, một lần nữa, nhận điện tín từ Long An đánh ra, mẹ Khiêm bệnh cũ
tái phát, nặng hơn, đã đưa vào bệnh viện tỉnh, xem ra có thể không xong rồi, buổi
sáng Cần xuống văn phòng quận, lái xe đưa anh xuống Đạ Ròn, báo tin cho Nhu
biết, phải về Long An vài ngày, hẹn gặp lại, dặn dò Cần vài chuyện, rồi đi Tùng
Nghĩa, lần này có thêm nửa tiểu đội nghĩa quân quận do lệnh của trung tá Hậu
theo hộ tống, trước khi đi, trung tá Hậu có vẻ buồn buồn, bảo với Khiêm, “ông phó ráng lo chuyện nhà, xong xuôi rồi
trở ra, không gấp gáp gì đâu, nhưng tình hình chiến trận xem ra không ổn, có
thể có nhiều chuyện xảy ra, nếu có gì ông phó liệu mà lo thân, đi đường cẩn
thận, hôm nào gặp lại mình nói chuyện sau”, hai người tiễn nhau bằng cái
bắt tay lành lạnh, đám lính ngồi chờ trên xe lặng thinh nhìn, xe chạy ngang ngã
ba Liên Hiệp, nghĩ ngợi mông lung, quá khỏi nhà mẹ Nhu rồi mà Khiêm còn hỏi Cần
“đã qua chỗ đó chưa”, khác với lần
trước đi về hồn trống không, lần này, Khiêm cảm thấy đời bỗng vui, có hình bóng
Nhu bên cạnh, từ trên phi cơ nhìn xuống, phi trường Liên Khương nhỏ dần rồi mất
hút giữa màn rừng sương dầy đặc, cô tiếp viên tươi cười chào, Khiêm đáp lại
cũng cùng nụ cười nhưng lòng dường như có chút gì đó buồn man mác.
Đầu tháng ba, bộ tư lệnh B3 Bắc Việt, tung
quân cắt đứt đường 19 ở phía đông và tây Pleiku, Kontum, rồi đường 14 ở Ea
H’Leo, đường 21 ở đông Chư Cúc, sau đó chiếm đèo Thượng An, Chư Sê, Thuần Mẫn,
Đức Lập, Ban Mê Thuộc bị cô lập hoàn toàn từ ngày 9 tháng 3. Ngày 11 tháng 3, thị
xã Ban Mê Thuộc mất trước sự tấn công dữ dội của sư đoàn 10 và 316 Bắc Việt, việc
cố gắng tái chiếm Ban Mê Thuộc của quân đội VNCH không thành công, giữa tháng
ba cao nguyên di tản, quân lính dân chúng hàng hàng lớp lớp, ùn ùn, gồng gánh,
bồng bế bỏ Kontum, Pleiku, Phú Bổn theo đường số 7 xuôi nam, VNCH gần như mất
toàn bộ các tỉnh cao nguyên, rồi tiếp theo đó, miền Trung, các tỉnh dọc biển
cũng bỏ ngõ, miền nam nhốn nháo, hổn loạn, tin mất hết tỉnh này tới tỉnh kia
nghe từng ngày một. Đà Lạt, Tuyên Đức, Đơn Dương Đức Trọng cũng chịu cùng chung
số phận, trường Võ Bị Quốc Gia VNCH di tản, dân chúng ùn ùn, dắt díu theo quốc
lộ 20 dẫn về ngã ba Dầu Giây ra quốc lộ 1, xuôi quốc lộ 27, băng đèo Ngoạn Mục
về Lâm Đồng Phan Rang.
Khiêm về kịp lúc đưa mẹ mình lên bênh viện
Chợ Rẫy trên Sài Gòn nhưng, bà không qua khỏi lần này, hai ngày sau bà qua đời,
cảnh nhà đơn chiếc, may mà có anh bạn khóa trên, vốn chơi với thân “chè chén bạc bài” từ những ngày ở nội
trú trong trường, đang là phó quận Cần Đước chạy đôn chạy đáo, kêu người trên
quận, người dưới xã phụ một tay, đem bà chôn gần bên mộ của ba mình, ở khoảnh
đất cao, ít cỏ hoang trong cái nghĩa địa gần chợ quận, còn bà dì ở Cần Đước,
nên Khiêm cũng đở lo phần nào chuyện mồ mả vì đời rồi sẽ “rày đây mai đó”. Khiêm trở ngược lên Sài Gòn mấy ngày sau, khi
nghe tin Ban Mê Thuộc mất, mấy tỉnh cao nguyên không còn nữa, quân đội VNCH gần
như tan hàng ngoài đó rồi, dân chúng trùng trùng điệp điệp chạy nạn vào nam,
đường phố Sào Gòn, chen chúc người và người, cái nắng tháng ba ở đây vốn đã
nóng giờ thêm hơi người, lại càng nóng gay nóng gắt, lính tráng súng đạn, khắp
đường xa ngõ gần, đằng đằng sát khí, thiên hạ hớt hãi, rục rịch tính chuyện bỏ
đi, chợ búa dân chúng tụ nhau “bàn ra tán
vào” hơn là mua bán, Khiêm chạy hết bến xe này tới bến xe kia, mấy lần lên
tới được Xuân Lộc rồi không đi thêm hơn nữa, quân sự đoàn 18 phối họp cùng số
quân từ hai quân khu ngoài về, dàn trận chờ địch, làm vòng đai phòng thủ cho
Sài Gòn, lội bộ, băng đồng, người vào Nam trên đường, chật kín không có chỗ cho
người ra Trung, không đêm nào ngủ trọn, thức vội thức vàng, khóc thì không khóc
nhưng lòng cứ đau nhói, quặn thắt mỗi khi nhớ đến Nhu, sau mấy lần không thành,
Khiêm mượn chiếc xe Honda của bà chị thằng bạn cùng khóa ở cư xá Lữ Gia vài
ngày, nắng bụi mặc trời, ngày qua ngày, sáng nào cũng chạy lên tới cả ngã ba
Dầu Giây, điểm cuối cùng của quốc lộ 20 từ Đà Lạt về, gậm bánh mì nguội, uống
nước nhà người, lầm lũi hỏi thăm hết nơi này tới nơi nọ, chạy “bán sống bán chết” tới bất cứ chỗ nào có
đoàn người di tản vào tạm ở, tìm tìm kiếm kiếm, mệt mỏi, rã rời, không được gì cả,
Khiêm cứ đi lên đi xuống như vậy cho tới ngày Xuân Lộc mất, hôm đem trả lại
chiếc xe Honda thì gia đình bà chị quen đã theo chiếc tàu nào đó bỏ đi rồi.
Chi khu Đơn Dương bỏ trống, quân lính VNCH
không còn ai, quân cộng sản, xe tăng đại pháo, rầm rập tràn xuống, từ hướng tây
nguyên, trong đó có Ban Mê Thuộc, hướng về miền biển, súng vẫn còn nổ , họ nã
đạn đại bác tầm xa tới nhiều chỗ, trong rừng cũng như trên các quốc lộ, với mục
đích tiêu diệt những nhóm nhỏ quân VNCH còn kháng cự và chận đường dân chúng bỏ
chạy, lần cuối gặp trước cửa văn phòng quận, khi tới gỡ lấy cụm hoa Lan treo
trong phòng của Khiêm mà Nhu đã tặng cho anh ta, theo lời Nhu nhờ, luôn tiện
lấy luôn tấm hình Khiêm chụp bán thân đen trắng lúc ra trường trên bàn, về đưa
lại cô ta giữ, quân lính không còn ai, phần lớn đã rút đi theo trung tá Hậu từ tối
hôm qua, ông chán nản bảo Cần “liệu mà
tính đi sớm tốt hơn, mình thua thiệt rồi”, súng đạn quân trang quăng vứt
bừa bải khắp đầu chợ cuối đường, không ai hỏi ai, cũng như dân chúng ở đây, cả
nhà Cần nhập theo đoàn người hối hả bỏ Đạ Ròn, Cần để gia đình đi trước, anh
chạy tìm Nhu, trong trạm y tế, mấy cô làm chung không thấy ai, bên trong phòng
băng bó, hai ba chị người thượng tay ôm gùi, đứng chờ, Nhu đang thay băng và
rửa vết thương khá lớn ở bàn chân của một bà cũng người thượng, bị trúng mìn
trên rẫy, không đi được, nằm ở đây mấy ngày qua, họ thản nhiên nhìn ra đường,
không có vẻ gì lo lắng, riêng người bị thương chân, chắc chắn là ở lại vì không
có cách gì lội bộ, Nhu chăm chú làm việc mình, thỉnh thoảng ngó ra ngoài, cụm
hoa Lan và tấm hình “ông phó Khiêm”
cũng còn nằm trên bàn, bên cạnh cái túi xách lưng lưng đồ đạc gì đó, Cần nôn
nóng hối thúc.
Nhu cứ chậm rãi coi như không có gì, dù vậy
cũng ngừng tay một chút, bước qua bàn sửa tới sửa lui túi xách, nhỏ nhẹ bảo Cần
đi trước, cô sẽ theo sau ngay, anh đành bỏ đi ra, không quên nhắc nhớ mau lên, tiếng
đạn đại pháo, tiếng xích xe tăng của quân cộng sản giờ nghe nhiều, dồn dập hơn
và gần hơn, đoàn người phía sau lên, cho biết, đã có người chết trên đường, bộ
đội cộng sản, còn mang cây lá rừng Trường Sơn ngụy trang đã xuất hiện lác đác
xa xa phía sau, Cần đi chậm, cố ý chờ Nhu, vừa qua khỏi đầu chợ xã, đạn đại
pháo rớt nổ long trời hai ba chỗ phía
dưới, khói bụi mờ mịt pha nặc mùi thuốc súng, dân chúng trên đường hớt hãi, kéo
nhau chạy tán lạng vào hai bên mé rừng thông, người ta bảo có một trái trúng
ngay vào trạm y tế, Cần quýnh quáng chạy ngược trở lại, trạm y tế bị sập gần
hết, lửa còn cháy âm ỉ, trước sân, không xa ngay trụ cờ, tấm bảng sơn đỏ hàng
chữ “trạm y tế Đạ Ròn” rớt ngã nằm
nửa trên nửa dưới, nơi cái hố lớn như hố bom sâu màu đất đỏ. Cần khóc thét “trời ơi, Nhu ơi, em ơi”, nhảy xuống, xác
Nhu nằm co quắp người bên dưới, máu rĩ ra, từ lòng ngực, nhuộm đỏ cái áo trắng
y tá mà cô thường mặc, mắt nhắm nghiền, mặt vẫn còn tươi, cái túi vải xách theo,
mở tung ra, cụm hoa Lan đè lên cánh tay lấp xấp đất phủ, tấm hình đen trắng của
Khiêm, rách một phần ở góc, nằm chênh vênh bên cạnh đầu, nước mắt ràng rụa,
sướt mướt, một lần nữa, Cần khóc thét to hơn, hai tay ôm lấy đầu, ngã quỵ xuống
“trời ơi Nhu ơi, em ơi, ông phó ơi”.
Đi ngược lại giòng người chạy nạn, ông già Thượng, gầy còm, đẩy chiếc xe đạp cũ
mèm, rĩ sét, chất hai ba cái bao cát xanh áo lính đầy khoai mì tới, ông lắc
đầu, nhìn xuống, tiếng đạn đại bác vẫn tiếp tục nổ đây đó trên đường, Cần đau
đớn nhìn lên, hai người không ai nói ai, lặng lẽ khiêng xác Nhu lên khỏi mặt hố,
rồi cũng lặng lẽ chôn nó cùng cụm hoa Lan và tấm hình Khiêm, dưới gốc cây đầu
của hàng thông sau trạm y tế, ông già lâm râm thì thầm trong miệng, ngước lên
trời, rồi lên xe, đạp bước ngã bước nghiêng về hướng rừng, Cần vừa khóc vừa lấy
cây trụ rào sắt, đào huyệt khi nãy, khắc sâu chữ Nhu cong queo trên một cành
lớn một tầm tay với, đưa tay rờ mặt đất đỏ một màu bụi xế trưa, Cần sụt sùi “anh đi đây, em ở lại bình yên nghe Nhu”.
Ở tù ra, Khiêm về Long An, khóc mẹ đôi lần,
bà dì nghèo hơn trước, may mà căn nhà nhờ bà dì giữ nên còn đó, anh cũng “khố rách áo ôm”chẳng giúp được gì hơn, “ăn hại là đằng khác”, nên mấy bữa cúng trước mồ chỉ là hai
ba vắt cơm khô chan muối mặn và mấy cây nhang cháy đen mùi khói khét, rồi lần
mò đón xe đò, quá giang xe hàng trở lên Đà Lạt, theo ngã Tùng Nghĩa, căn nhà
Nhu ở Liên Hiệp không còn đó nữa, giờ nằm cháng dọc đường là một dãy phố dài,
có rào có cổng, ở đó chỉ toàn là người lạ giọng miền Bắc. Ngủ đêm ngoài bến xe
ở Tùng Nghĩa, hôm sau lên Đơn Dương, bằng chiếc xe đạp, nài nỉ mướn vài ngày
của một anh bộ đội què chân, bán vé số, nẳm ngủ kế bên, Khiêm lên tới Đơn Dương
giữa trưa, cờ xí biểu ngữ đỏ màu máu suốt hai bên đường, cái văn phòng quận ngày
trước, cũng như cũ nhưng nước sơn lại còn mới tinh, vịn xe đứng nhìn, Khiêm
bỗng dưng muốn khóc, cái khóc “lối xưa xe
ngựa hồn thu thảo, cảnh đấy người đây lắm đoạn trường” của bà Huyện Thanh Quan,
Khiêm kéo cái nón “tai bèo bộ đội”
sờn vải bạc màu lau mặt, nước mắt trộn mồ hôi mặn cay xé, vài ba anh bộ đội chở
chất gì đó nặng chình chịch, trên mấy cái xe đạp “Trung quốc” đi qua ngang, hờ hững nhìn, Khiêm sửa lại nón, đẩy xe
ra đường, gò lưng đạp lên Đạ Ròn.
Nhà cũng còn đó nhưng cửa đóng then gài, người
trong nhà đã đi lên rẫy trên rừng từ sáng sớm, nghe tiếng người, chống nạng gỗ
một bên chân cụt, Cần bước ra, cánh cửa bật tung, quỵ xuống, Khiêm xô chiếc xe
đạp ngã đùng trước sân, chạy ào tới, hai người ôm nhau, chết trân, Cần sướt
mướt “ông phó, ông phó, em Nhu chết rồi,
ông phó ơi”, Khiêm quặn đau khóc lớn “trời
ơi, Cần ơi”, nửa cái chân cụt còn lại run lên theo tiếng nấc từng đoạn, cái
nạng nằm chơ vơ một bên, nhìn kỹ gỗ đã mòn gần phân nửa, ngưng khóc, Khiêm đở
Cần đứng lên, trời giờ này vừa có chút nắng giữa trưa, lùa gió rừng và xuyên bụi
đỏ. Ngày bỏ Đơn Dương, sau khi chôn Nhu, Cần len đoàn người, bắt kịp ba mẹ, hai
đứa em, họ cũng nấn ná chờ, ai nấy khóc sụt sùi khi nghe tin Nhu chết, qua khúc
đường rừng quanh co, giữa Thạnh Mỹ và ngã ba Liên Hiệp, Cần đạp trúng phải mìn,
máu ra nhiều, chân bị gãy phần dưới đầu gối, áo quần lôi ra cột trên băng dưới
nhưng không khá hơn, cả nhà quyết định đi ngược lại, quay trở về nhà, dùng mớ
lá cây rừng theo bài thuốc của người Thượng chửa trị vết thương, từ đó họ cũng
không có tin tức gì về gia đình bà dì ở Liên Hiệp.
Khập khễnh chống nạng, Khiêm dìu một bên,
Cần dẫn Khiêm, chậm chạp ra chỗ hàng cây thông già, vẫn còn nguyên đó, chạy dọc
con đường đất mới làm, cái hố ở trạm y tế đã được lấp bằng, giờ là cái công
viên nhỏ, cũng có mớ cỏ xanh, lác đác vài bụi cây và lá hoa vàng tím, lắp gắn
năm ba thứ đồ chơi trẻ con, mấy chữ “cung
thiếu nhi” đỏ lói trên vòm cổng, đứng dưới tàn cây đầu, Cần chỉ cho Khiêm,
chữ “Nhu” mà anh đã khắc trên cành
thông ngày hôm đó, không rõ nét vì vỏ cây khô đi, nhưng vẫn còn nhìn ra được,
đất quanh gốc khô cằn, thiếu nước, hai người ngồi bệt xuống, đưa tay rờ qua rờ
lại trên mặt đất, Khiêm nghe hồn mình chết lịm, nước mắt cứ tuôn dài, khóc
không thành tiếng, Cần lập đi lập lại “ngay
chỗ này, Nhu nằm ngay chỗ này, ông phó ơi”, ngoài đường, hai ba người bộ
đội, mang súng đi ngang, lơ đễnh nhìn vào, nói với nhau gì đó, bỏ đi không buồn
quay ngó lại.
Cần
đứng sát, tựa vào gốc thông không lâu, rồi lửng thửng trở lại nhà, Khiêm
nhìn quanh nhìn quất, chợ xã vắng người, ngắt vội năm ba cánh hoa dại trong đám
cỏ bên rào “cung thiếu nhi”, gom lại
làm bó hoa, cắm xuống, đưa tay mân mê, vuốt từng hạt cát đỏ trên đất ngay chỗ
đang ngồi, vừa nhìn theo Cần vừa thì thầm “ngủ
đi em, hảy yên nghỉ, Nhu ơi, vĩnh biệt”. Từ giã Cần, hẹn sẽ có ngày nào đó
gặp lại nhưng không chắc là ngày nào và ở đâu, Khiêm đạp xe đi, tới lưng chừng
con đường dốc, dừng lại bên lề đường, nhìn hàng thông, căn nhà, Cần vẫn còn
đứng chống nạng, tựa bên cửa, Khiêm bật khóc, bóng Khiêm gầy guộc, ngã xuôi dài
xuống hướng có Nhu đang nằm dưới lòng đất, giữa cái nắng sắp tàn cận chiều, rồi
cũng đành bỏ Đạ Ròn mà đi, mang theo một nửa hồn đã chết đâu đó trên lung chưng
dốc đời, kéo cái nón phủ kín, cúi gầm đầu đạp xe lên dốc, một lần nữa, cũng có
thể là lần cuối, nuốt vội giọt nước mắt pha chút mồ hôi mặn, còn đọng lại trên
môi, Khiêm nghẹn ngào nói thầm hai tiếng “vĩnh
biệt”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét