Ngư Ông khúc hành
漁翁曲行
野翁淡泊亦繁花
錯認桃源是薜蘿
寄語挳舟從釣子
過江應不聽琵琶
過江莫聽琵琶
高聲不似胡笳悽涼
桃源水闊山長
漁翁一棹仙堂半開
萬重春鎖天台
琴聲樂角聲哀不同
寒山草色蔥蔥
蘇溪幾到清風自閑
*
Ngư ông khúc hành
Dã ông đạm bạc diệc phồn hoa,
Thác nhận Đào Nguyên thị bệ la.
Ký ngữ khinh chu tòng điếu tử,
Quá giang ưng bất thính tỳ bà.
*
Quá giang mạc thính tỳ bà,
Cao thanh bất tự hồ già thê lương.
Đào nguyên thuỷ khoát sơn trường,
Ngư ông nhất trạo tiên đường bán khai.
Vạn trùng xuân toả thiên thai,
Cầm thanh lạc, giốc thanh ai bất đồng.
Hàn sơn thảo sắc thông thông,
Tô khê kỷ đáo thanh phong tự nhàn.
*
Nguồn:
1. Hồ Xuân Hương thơ chữ Hán - chữ Nôm & giai thoại, Bùi Hạnh Cẩn, NXB Văn hoá - Thông tin, 1999
2. Bản sao từ bản chép tay của Nguyễn Văn Hoàn, do Nguyễn Xuân Diện cung cấp
*
Chú thích:
dã ông: 野翁, ông già ở chốn quê.
đạm bạc: 淡泊, nhạt nhẽo, vô vị.
diệc: 亦, cũng, cũng thế.
Phồn hoa: 繁花, náo nhiệt, xinh đẹp.
Thác nhận: 錯認, cứ tưởng đành lòng.
Đào Nguyên: 桃源, nguồn đào,chỗ tiên ở.
Trong bài Đào Hoa nguyên ký, Đào Tiềm nói có người đánh cá chèo thuyền lạc lối đến Đào Nguyên là chỗ động tiên. Do đó, đào nguyên thường dùng để chỉ động tiên:
Rước mừng đón hỏi dò la,
Đào nguyên lạc lối đâu mà tới đây?
ĐTTT, Nguyễn Du, câu 191-192, bản Bùi Kỹ và Trần Trọng Kim
thị bệ la:是薜蘿, chính là thềm rêu.
Ký ngữ: 寄語,Gởi lời.
khinh chu: 挳舟, chiếc thuyền nhẹ.
tòng điếu tử: 從釣子, theo người đi câu.
Quá giang: 過江, qua sông.
Ưng: 應, nên, bằng lòng.
bất thính tỳ bà: 不聽琵琶, Không nghe tiếng đàn tỳ bà.
Mạc: 莫, tuyệt nhiên, chẳng ai không
Cao thanh: 高聲, Tiếng ngân cao.
bất tự 不似, không giống giống như thế. (à peu près semblable)
hồ già thê lương: 胡笳悽涼, cái kèn lá lạnh lẽo bi ai.
Thủy khoát: sơn trường: 水闊山長, biển rộng núi dài,
toả Thiên Thai: 鎖天台,Thiên Thai đã khóa.
Thiên Thai: 天台,Một hòn núi ở tỉnh Chiết Giang bên Tàu. Đời nhà Hán, có Lưu Trần và Nguyễn Triệu vào núi Thiên Thai hái thuốc và gặp tiên. Do đó, Thiên Thai dùng để chỉ cảnh tiên,
Xắn tay mở khóa động đào,
Rẽ mây trong tỏ lối vào Thiên Thai.
ĐTTT, Nguyễn Du, câu 391-392, bản Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim.
giốc thanh ai: 角聲哀, tiếng thổi sừng trâu nghe bi ai.
Bất đồng: 不同, không hòa quyện thuận thanh cùng nhau, chói tai.
thảo sắc thông thông: 草色蔥蔥, sắc cỏ xanh ngắt.
Tô khê: 蘇溪, khe suối chảy về sông Tô Châu bên Tàu.
kỷ đáo: 幾到, mỗi lần đến.
*
Ông già dẫu ở quê nhạt nhẽo cũng thấy như ở thị thành
Cứ ngỡ chốn thần tiên nầy là những bệ rêu xanh.
Nhắn gởi người đi câu trên chiếc thuyền nhẹ,
Chớ đam mê tiếng tỳ bà khi qua sông.
*
Chớ đam mê tiếng tỳ bà khi qua sông.
Tiếng ngân cao không giống tiếng kèn lá bi ai của người Mán.
Động tiên biển rộng, núi dài mênh mang.
Ngư ông chèo một mình, để nhà tiên hé mở.
Vạn vạn năm, cửa đến thiên thai mãi khóa,
Tiếng đàn rụng, tiếng tù và bi thảm, không quyện cùng nhau.
Kìa trên núi lạnh sắc cỏ xanh ngắt,
Mỗi lần đến sông Tô, hóng gió mát, tức là đã nhàn hạ rồi.
*
Bản dịch của Bùi Hạnh Cẩn
Gửi bởi Vanachi ngày 238/2008
Già quê đạm bạc cũng phồn hoa,
Lầm tưởng đào non là dây hờ.
Nhắn nhủ người câu đò nhẹ lướt,
Qua sông đừng lắng tiếng tỳ bà.
*
Qua sông đừng lắng tiếng tỳ bà.
Tiếng cao không giống sáo Hồ thê lương.
Nguồn đào trời nước mênh mang,
Nhà tiên hé mở, chèo buông đò chài.
Muôn trùng Xuân khóa thiên Thai,
Tiếng ốc buồn, tiếng đàn vui chả cùng.
Cỏ bời lợp, núi lạnh lùng,
Sông Tô hầu tới thung dung gió nhàn.
*
Ngân Triều diễn thơ
Khúc hát Ngư ông
Già quê dẫu nhạt, cảnh nguy nga,
Ngỡ chốn thần tiên, rêu bệ hoa.
Nhắn gởi ai câu, thuyền nhẹ lướt,
Sang sông, chớ lụy tiếng tỳ bà.
*
Sang sông, chớ lụy tiếng tỳ bà ,
Ơi gió thảm sầu kèn xứ Hồ!
Biển mộng núi mơ tiên chẳng thấy,
Đào Nguyên đâu hé mải chèo vô?
Thiên Thai ngàn thuở then cài mãi,
Còi rúc, đàn kêu, thẹn tiếng tơ.
Chỉ thấy cỏ xanh, ôm núi lạnh,
Yên hà say gió mát Sông Tô, (a)
*
(a) thú yên hà:煙 霞 . khói và mây. Thú vui tự do, thanh thản, không bị ràng buộc như mây và khói, thú vui của người ẩn sĩ.
Nghêu ngao vui thú yên hà,
Mai là bạn cũ, hạc là người quen
Ca dao
*
Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn?
Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Sớm doi tối vịnh vui vầy,
Ngày dài hứng gió đêm chầy chơi trăng.
Tháng ngày thong thả làm ăn,
Khỏe quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm.
Nghêu ngao nay chích mai đầm,
Một bầu trời đất vui thầm ai hay.
Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu
Ngân Triều
*
Trích Nhớ Bóng Trăng Xưa quyển 5, Ngân Triều, sẽ phát hành.
*
Ảnh minh họa:
+Đánh cá ở biển Thịnh Long, Hải Hậu, Nam Định.
+Đánh cá ở Phá Tam Giang
漁翁曲行
野翁淡泊亦繁花
錯認桃源是薜蘿
寄語挳舟從釣子
過江應不聽琵琶
過江莫聽琵琶
高聲不似胡笳悽涼
桃源水闊山長
漁翁一棹仙堂半開
萬重春鎖天台
琴聲樂角聲哀不同
寒山草色蔥蔥
蘇溪幾到清風自閑
*
Ngư ông khúc hành
Dã ông đạm bạc diệc phồn hoa,
Thác nhận Đào Nguyên thị bệ la.
Ký ngữ khinh chu tòng điếu tử,
Quá giang ưng bất thính tỳ bà.
*
Quá giang mạc thính tỳ bà,
Cao thanh bất tự hồ già thê lương.
Đào nguyên thuỷ khoát sơn trường,
Ngư ông nhất trạo tiên đường bán khai.
Vạn trùng xuân toả thiên thai,
Cầm thanh lạc, giốc thanh ai bất đồng.
Hàn sơn thảo sắc thông thông,
Tô khê kỷ đáo thanh phong tự nhàn.
*
Nguồn:
1. Hồ Xuân Hương thơ chữ Hán - chữ Nôm & giai thoại, Bùi Hạnh Cẩn, NXB Văn hoá - Thông tin, 1999
2. Bản sao từ bản chép tay của Nguyễn Văn Hoàn, do Nguyễn Xuân Diện cung cấp
*
Chú thích:
dã ông: 野翁, ông già ở chốn quê.
đạm bạc: 淡泊, nhạt nhẽo, vô vị.
diệc: 亦, cũng, cũng thế.
Phồn hoa: 繁花, náo nhiệt, xinh đẹp.
Thác nhận: 錯認, cứ tưởng đành lòng.
Đào Nguyên: 桃源, nguồn đào,chỗ tiên ở.
Trong bài Đào Hoa nguyên ký, Đào Tiềm nói có người đánh cá chèo thuyền lạc lối đến Đào Nguyên là chỗ động tiên. Do đó, đào nguyên thường dùng để chỉ động tiên:
Rước mừng đón hỏi dò la,
Đào nguyên lạc lối đâu mà tới đây?
ĐTTT, Nguyễn Du, câu 191-192, bản Bùi Kỹ và Trần Trọng Kim
thị bệ la:是薜蘿, chính là thềm rêu.
Ký ngữ: 寄語,Gởi lời.
khinh chu: 挳舟, chiếc thuyền nhẹ.
tòng điếu tử: 從釣子, theo người đi câu.
Quá giang: 過江, qua sông.
Ưng: 應, nên, bằng lòng.
bất thính tỳ bà: 不聽琵琶, Không nghe tiếng đàn tỳ bà.
Mạc: 莫, tuyệt nhiên, chẳng ai không
Cao thanh: 高聲, Tiếng ngân cao.
bất tự 不似, không giống giống như thế. (à peu près semblable)
hồ già thê lương: 胡笳悽涼, cái kèn lá lạnh lẽo bi ai.
Thủy khoát: sơn trường: 水闊山長, biển rộng núi dài,
toả Thiên Thai: 鎖天台,Thiên Thai đã khóa.
Thiên Thai: 天台,Một hòn núi ở tỉnh Chiết Giang bên Tàu. Đời nhà Hán, có Lưu Trần và Nguyễn Triệu vào núi Thiên Thai hái thuốc và gặp tiên. Do đó, Thiên Thai dùng để chỉ cảnh tiên,
Xắn tay mở khóa động đào,
Rẽ mây trong tỏ lối vào Thiên Thai.
ĐTTT, Nguyễn Du, câu 391-392, bản Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim.
giốc thanh ai: 角聲哀, tiếng thổi sừng trâu nghe bi ai.
Bất đồng: 不同, không hòa quyện thuận thanh cùng nhau, chói tai.
thảo sắc thông thông: 草色蔥蔥, sắc cỏ xanh ngắt.
Tô khê: 蘇溪, khe suối chảy về sông Tô Châu bên Tàu.
kỷ đáo: 幾到, mỗi lần đến.
*
Ông già dẫu ở quê nhạt nhẽo cũng thấy như ở thị thành
Cứ ngỡ chốn thần tiên nầy là những bệ rêu xanh.
Nhắn gởi người đi câu trên chiếc thuyền nhẹ,
Chớ đam mê tiếng tỳ bà khi qua sông.
*
Chớ đam mê tiếng tỳ bà khi qua sông.
Tiếng ngân cao không giống tiếng kèn lá bi ai của người Mán.
Động tiên biển rộng, núi dài mênh mang.
Ngư ông chèo một mình, để nhà tiên hé mở.
Vạn vạn năm, cửa đến thiên thai mãi khóa,
Tiếng đàn rụng, tiếng tù và bi thảm, không quyện cùng nhau.
Kìa trên núi lạnh sắc cỏ xanh ngắt,
Mỗi lần đến sông Tô, hóng gió mát, tức là đã nhàn hạ rồi.
*
Bản dịch của Bùi Hạnh Cẩn
Gửi bởi Vanachi ngày 238/2008
Già quê đạm bạc cũng phồn hoa,
Lầm tưởng đào non là dây hờ.
Nhắn nhủ người câu đò nhẹ lướt,
Qua sông đừng lắng tiếng tỳ bà.
*
Qua sông đừng lắng tiếng tỳ bà.
Tiếng cao không giống sáo Hồ thê lương.
Nguồn đào trời nước mênh mang,
Nhà tiên hé mở, chèo buông đò chài.
Muôn trùng Xuân khóa thiên Thai,
Tiếng ốc buồn, tiếng đàn vui chả cùng.
Cỏ bời lợp, núi lạnh lùng,
Sông Tô hầu tới thung dung gió nhàn.
*
Ngân Triều diễn thơ
Khúc hát Ngư ông
Già quê dẫu nhạt, cảnh nguy nga,
Ngỡ chốn thần tiên, rêu bệ hoa.
Nhắn gởi ai câu, thuyền nhẹ lướt,
Sang sông, chớ lụy tiếng tỳ bà.
*
Sang sông, chớ lụy tiếng tỳ bà ,
Ơi gió thảm sầu kèn xứ Hồ!
Biển mộng núi mơ tiên chẳng thấy,
Đào Nguyên đâu hé mải chèo vô?
Thiên Thai ngàn thuở then cài mãi,
Còi rúc, đàn kêu, thẹn tiếng tơ.
Chỉ thấy cỏ xanh, ôm núi lạnh,
Yên hà say gió mát Sông Tô, (a)
*
(a) thú yên hà:煙 霞 . khói và mây. Thú vui tự do, thanh thản, không bị ràng buộc như mây và khói, thú vui của người ẩn sĩ.
Nghêu ngao vui thú yên hà,
Mai là bạn cũ, hạc là người quen
Ca dao
*
Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn?
Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Sớm doi tối vịnh vui vầy,
Ngày dài hứng gió đêm chầy chơi trăng.
Tháng ngày thong thả làm ăn,
Khỏe quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm.
Nghêu ngao nay chích mai đầm,
Một bầu trời đất vui thầm ai hay.
Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu
Ngân Triều
*
Trích Nhớ Bóng Trăng Xưa quyển 5, Ngân Triều, sẽ phát hành.
*
Ảnh minh họa:
+Đánh cá ở biển Thịnh Long, Hải Hậu, Nam Định.
+Đánh cá ở Phá Tam Giang
bài rất hay
Trả lờiXóa