PHẠM ĐÌNH LÂN, F.A.B.I.
Loài người, động vật và thảo mộc sống bằng những thức ăn khác nhau nhưng tất cả đều phải cần đến nước. Thức ăn và chén đũa của loài người khác nhau tùy theo địa vị xã hội và tài sản của người dùng. Nhưng tất cả loài người không phân biệt giai cấp xã hội, sự phú quí hay bần hèn, học thức hay dốt nát, trẻ- già hay nam- nữ đều cần nước để sống. Nước không màu sắc và không hương vị nhưng không ai nói chán không muốn uống nước cả. Nước không có hương vị. Vậy mà người sản xuất nước ngọt, rượu mạnh, nước mắm, nước tương...đều phải dùng đến nước.
Loài người, động vật và thảo mộc sống bằng những thức ăn khác nhau nhưng tất cả đều phải cần đến nước. Thức ăn và chén đũa của loài người khác nhau tùy theo địa vị xã hội và tài sản của người dùng. Nhưng tất cả loài người không phân biệt giai cấp xã hội, sự phú quí hay bần hèn, học thức hay dốt nát, trẻ- già hay nam- nữ đều cần nước để sống. Nước không màu sắc và không hương vị nhưng không ai nói chán không muốn uống nước cả. Nước không có hương vị. Vậy mà người sản xuất nước ngọt, rượu mạnh, nước mắm, nước tương...đều phải dùng đến nước.
Văn
minh nhân loại được hình thành dọc theo các dòng nước. Bất cứ một thành
phố lớn nào trên thế giới cũng có một dòng sông chạy ngang qua. Nước
quan trọng đến nỗi người Việt Nam đã dùng hình ảnh của đất, nước, núi,
sông để gọi lên hình ảnh của quê hương mình với những từ thân ái: NƯỚC
TÔI, ĐẤT NƯỚC, SƠN HÀ, NƯỚC NHÀ. Cách gọi nôm na đầy thân thương này làm
cho người ngoại quốc học tiếng Việt sẽ khổ sở khi nghĩ đơn giản rằng
NƯỚC TÔI là my water và NƯỚC NHÀ là water house.
Sa
mạc là nơi thiếu nước trầm trọng. Nhưng ốc đảo là nơi có thảo mộc sinh
sống nhờ có nước. Văn minh Ai Cập và Assyria nẩy nở dọc theo sông Nile,
sông Tiger và sông Euphrates. Sông Nile càng gây lũ lụt thì sa mạc hai
bên bờ sông càng phì nhiêu vì có phù sa và đầy đủ nước. Do Thái và
Jordan trông cậy vào nguồn nước ngọt của sông Jordan.
Trên
thế giới có hai quốc gia nhỏ đặc biệt quan tâm đến nước. Đó là Hòa Lan
và Do Thái. Hòa Lan nổi tiếng về công tác trị thủy vì nước này nằm dưới
mực nước biển. Trong nước có những vùng trũng đầy nước cần tháo nước để
có thêm đất đai canh tác. Chữ Holland nói lên hình thể đặc biệt này (Hole:
lỗ trũng). Do Thái chỉ rộng bằng 1/3 diện tích Nam Bộ. 55% diện tích
của nước này do sa mạc Negev chiếm ngự (13,000 km2). Do đó nhu cầu về
nước để canh tác rất quan trọng nên nước này phải nghĩ đến việc biến
nước biển thành nước ngọt, thanh lọc nước phế thải trong nhà để dẫn vào
sa mạc dùng vào việc canh tác. Nước được dẫn bằng một hệ thống ống cống
to lớn nhằm giảm thiểu sự bốc hơi.
Trở
lại vấn để nước ở quê nhà bằng những ký ức còn rơi rớt khiến tôi nhớ
lại những lu nước nhỏ ở trước mọi nhà thời tiền chiến ở các làng quê
trong tỉnh Thủ Dầu Một dành cho người đi đường dùng sau cuộc hành trình
mỏi mệt. Ngày nào tôi cũng thấy bà ngoại tôi cúng ba chum nước lạnh trên
bàn Thiên ngoài Trời. Những hình ảnh tầm thường và quen thuộc này cho
thấy lòng nhân ái, sự quí trọng NƯỚC của tiền nhân chúng ta xem NƯỚC là
cái gì thiêng liêng không thể thiếu được.
Quê
ngoại của tôi có suối mà không có sông. Dân làng uống nước mạch. Những
người khá giả dùng xe bò chở nước về nhà. Những người khác phải vất vả
gánh nước đi trên một đoạn đường dốc đất sét trơn trợt vào mùa mưa. Một
vài dân làng ở quê ngoại tôi biết bơi lội nhờ có các hầm đất sét rộng
lớn và đầy nước khi trời mưa. Những hầm đất sét cạn và có hang ngách là
nơi dân làng lẩn trốn lính Pháp vào làng bắt dân đem về Phú Lợi kiểm tra
lý lịch xem có tên trong sổ bìa đen không.
Quê
nội tôi không có sông, không suối, không núi, không đồi. Làng nằm trên
một vùng đất cao đến nỗi đào giếng sau 25 m vẫn không có nước. Khi còn
nhỏ chúng tôi phải xuống mạch Cây Đào ở làng Tân Phước lân cận thuộc
tỉnh Biên Hòa để tắm hàng ngày. Dân trong làng phải xây hồ hay mua nhiều
lu để chứa nước mưa lọc kỹ để dùng quanh năm. Cây cối sống nhờ nước
mưa. Quê nội tôi là một xã nông thôn không có nông dân. Đa số dân làng
là công chức, tư chức, nhà giáo, nhà buôn, khai thác lâm sản v.v. Có
người lập nghiệp ở Phnom Penh, Kompong Chàm, Xa Cam, Xa Cát, Lộc Ninh,
Xuân Lộc. Có người thành công trong công việc bán giày ở Sài Gòn và Phủ
Toàn quyền ở Hà Nội. Đời sống vật chất và trí thức của dân làng quê nội
tôi cao hơn quê ngoại của tôi rất nhiều. Họ có nhà cửa khang trang với
bàn ghế làm bằng gỗ quí như trắc, gõ, cẩm lai. Nhà có hàng rào bằng cây
xanh đặc biệt là cây hoa dâm bụt. Nhưng quê nội của tôi là một xã bất
hạnh nhất nước suốt hai cuộc chiến tranh Việt Nam. Xã có vị trí địa lý
quan trọng ngoài rìa Chiến Khu D cách Thủ Dầu Một (Bình Dương) 10 km và
cách Biên Hòa 12 km. Xã có một khu rừng không quá 5 km2. Khu rừng này
được gọi là Rừng Cò- Mi vì gần đó có nhà của ông cò- mi Mận. Trong cuộc
chiến tranh lần thứ nhất quê nội tôi hoàn toàn không có dân. Vì đa số
dân làng có cuộc sống phú túc và ổn định ở các thành phố lân cận sau khi
quân Pháp biến xã thành biển lửa vào những ngày đầu cuộc chiến. Xã trở
thành mục tiêu của các giàn trọng pháo từ Phú Lợi, Dĩ An, Lái Thiêu và
Thủ Đức rót vào. Sau 09 năm chiến tranh sở gòn rộng lớn của cha tôi
không còn sống sót một cây nào! Cây cỏ mọc um tùm không sao tìm được dấu
vết của nền nhà.
Các
cây ăn trái như bưởi, mận, vú sữa quanh nhà cha tôi đều chết sạch. Cây
trưởng ngọt và tróc của ông nội tôi cũng biến mất. Chỉ có cây xoài trước
sân nhà của ông còn sống sót nhưng rất èo uột. Sau năm 1954 ông Trần
Văn Trai tình cờ gặp anh tôi ở Sài Gòn. Trong buổi nói chuyện ngắn ngủi
hai người đã có mẩu số chung về việc tái thiết quê nội tôi. Ông Trai có
cảm tình với quê nội tôi vì ông đã từng đến đó với chị của ông, vợ của
một người bác của tôi. Xã được tái thiết để có tên trên bản đồ hành
chánh trong tỉnh. Trên thực tế không có người về cư trú thường trực.
Người ta chỉ dựng lên những chòi tranh nhỏ đề về nghỉ mát cuối tuần trên
vườn cây ăn trái vừa mới tạo lập. Một số vườn cây ăn trái trong đó có
vườn cây ăn trái và hồ tiêu của anh cả tôi bị thiệt hại ít nhiều khi có
chương trình thành lập Ấp Chiến Lược. Không bao lâu xã trở thành vùng
oanh kích tự do. Rừng Cò- Mi bị khai quang. Xa lộ Đại Hàn nối liền Quốc
Lộ 1 với Bình Dương đi ngang qua quê nội và quê ngoại tôi. Nhưng xã quê
nội tôi bị mất trên bản đồ hành chánh tỉnh Bình Dương vì không có dân
sinh sống. Điều này làm cho tôi cảm thấy chua xót vô cùng. Không ngờ quê
nội tôi chịu cảnh bất hạnh hơn bất cứ địa phương nào trong nước sau hai
cuộc chiến. Tôi nhớ lại lời cha tôi nói về sự phân ly của dân làng sau
khi người nghe một con chim hót như tiếng tu- hít thổi từ vườn bưởi
quanh nhà trước khi người bị Pháp bắt đem ra Lái Thiêu cầm tù. Tôi không
biết trong trường hợp nào cha tôi có kinh nghiệm này. Và đến bây giờ
tôi cũng không biết con chim có tiếng hót như tu- hít thổi là chim gì?
và trong số những thân hữu đọc bài viết này có kinh nghiệm tương tự nào
về sự thông báo sự phân ly của tiếng chim giống tiếng tu hít thời nay
không? Tôi thúc giục anh tôi tìm mọi cách xây dựng lại xa quê nội để
phục hồi địa danh xã trên bản đồ hành chánh.
Sự
tái thiết xã quê nội lần thứ hai này được những người trong làng có
danh phận trong xã hội thời bấy giờ nhiệt liệt hưởng ứng vì không ai
muốn thấy xã sinh quán của mình bị xóa trên bản đồ. Tôi bàn với anh tôi
hai vấn đề ưu tiên trong công việc tái thiết xã quê nội:
1. xây dựng đình làng để dân làng có nơi tế tự và phát triển tâm linh và niềm tin
2. tạo nguồn cung cấp NƯỚC, ưu tư hàng đầu của tiền nhân trong xã.
Về vấn đề thứ nhất sự vận động với Hoa Kỳ, chánh quyền tỉnh Bình Dương, Phủ Quốc Vụ Khanh P.Q. Đán... gặp nhiều thuận lợi.
Anh
tôi băn khoăn về vấn đề NƯỚC. Kinh nghiệm cho thấy không thể đào giếng
được. Chuyện không khó. Đào giếng 25 m không có nước nhưng khoan giếng
sâu quá 100 m thì chắc chắn có nước trong và tinh khiết. Đó là giếng
Artois (puits artesiens). Muốn khoan sâu dưới lòng đất hàng trăm thước
như vậy cần phải có máy móc cực mạnh. "Chuyện này phải nhờ đến Công
Chánh vậy." Tôi nói với anh tôi. Thế là có sự trợ giúp của bộ Công Chánh
lúc ấy đó ông Dương Kích Nhường làm tổng trưởng. Bộ Công Chánh khoan
hai giếng sâu trên 100 m và tặng cho hai máy bơm rất mạnh để bơm nước.
Không biết bây giờ dân trong xã có dùng nước của hai giếng khoan này
không sau khi hai máy bơm nước bị chở đi nơi khác.
CHUYỆN VỀ NƯỚC
Đã
một lần tôi có đề cập đến nước trong Bản Tin Thân Hữu và được Nguyễn
Thị Mai cảm thông khi nhớ lại cảnh khát nước lúc vượt biên trong rừng
rậm Cambodia. Nước quan trọng trong đời sống của loài người. Nó là nhu
cầu cần thiết của NGƯỜI, ĐỘNG VẬT và THẢO MỘC. Thức ăn của người, động
vật và thảo mộc khác nhau nhưng tất cả đều phải cần đến nước. Nó là mẫu
số chung của NGƯỜI, ĐỘNG VẬT, THẢO MỘC và của loài người bất luận nam,
phụ, lão, ấu, nam phái hay nữ phái, có học hay vô học, nghèo nàn hay
giàu sang, thảo dân hay người thống trị v.v..
Nước
ở vào thể lỏng, không hương, không sắc, không mùi vị nhưng ai cũng uống
và không bao giờ biết chán. Chẳng những vậy những hãng sản xuất nước
mắm, nước ngọt, các loại thực phẩm cho loài người, động vật, thảo mộc,
các nhà máy sản xuất phi cơ, xe hơi, tàu bè...đều cần nước trong quá
trình sản xuất. Các quốc gia Trung Đông nằm trong vùng khô hạn thiếu
nước trầm trọng. Bao quanh vùng này có Địa Trung Hải, một nguồn nước mặn
to lớn giữa lúc nội địa thiếu nước ngọt để uống và canh tác. Tình trạng
sa mạc hóa gia tăng giới hạn diện tích canh tác và cư trú.
Do
Thái là quốc gia khô hạn nhất ở Trung Đông. 62% nước này là sa mạc
Neguev rộng 14,000 km2 nằm ở phía nam. Phía tây là Địa Trung Hải. Phía
đông có Tử Hải (Nam) có nhiều khoáng sản hơn là hồ nước ngọt. Ngược lên
phía đông bắc là hồ Galilee tức hồ Tiberias. Sông Jordan đổ nước ngọt
vào hồ này. Sự bốc hơi ở hồ Galilee khá cao vì bức nhiệt của ánh sáng
mặt trời miền Cận Đông (Near East- Proche Orient). Nước mưa chỉ cung ứng
50% nhu cầu về nước tiêu dùng cho Do Thái. Khi về lập quốc vấn đề nước
là vấn đề hàng đầu của quốc gia tân lập này. Diện tích Do Thái chỉ có
22,580 km2. Sa mạc chiếm 14,000 km2. Nếu không có nước thì phải hy sinh
2/3 diện tích đất đai sa mạc. Tuỳ thuộc vào nước mưa không đủ nước tiêu
dùng cũng không đủ sức biến sa mạc Neguev thành những cánh đồng phủ đầy
hoa màu được. Các nhà khoa học Do Thái nghĩ ngay đến nguồn nước biển của
Địa Trung Hải và Hồng Hải. Trong thời gian đó họ phải nghĩ đến việc giữ
nước sông Jordan, hồ Galilee (hồ Tiberias) nơi, theo Thánh Kinh, Chúa
Jesus chỉ các ngư phủ thả lưới nơi có nhiều cá và ấn chứng phép lạ khi
đi trên mặt nước hồ. Mặt khác người Do Thái tạo những hệ thống giữ nước
mưa và nước tiêu dùng trong nhà dẫn về sa mạc bằng những hệ thống ống
dẫn nước to lớn để tránh bốc hơi. 90% nước tiêu dùng trong gia đình được
lọc sạch và dẫn về sa mạc để tưới cây. Nhờ vậy mà Neguev phủ đầy vườn
cam, quít, bưởi, nho, các loại hoa và rau cải.
Vào
đầu thập niên 1960 việc nghiên cứu chuyển nước biển thành nước ngọt để
tiêu dùng trong nhà và để uống đã có kết quả nhưng giá nước biển khử
mặn (desalination) vẫn còn cao. Liên Hiệp Quốc rất quan tâm đến cuộc
nghiên cứu này. Sự thành công của việc khử mặn nước biển để biến thành
nước ngọt dùng để uống hay tưới cây sẽ giúp cho các vùng khí hậu khô hạn
trên thế giới trở nên trù phú và đầy sức sống. Đến năm 2005 Do Thái
thiết lập bốn (04) nhà máy dùng nước biển chuyển ra nước ngọt. Năm
nay (2014) Do Thái thiết lập nhà máy thứ năm rộng bằng 06 sân vận động ở
Sorek cách Tel Aviv 15 km. Nhà máy nầy sản xuất 624,000 m3 nước ngọt
mỗi ngày. Giá sản xuất rẻ như việc cung cấp nước ngọt thường thấy ở các
nước Âu Mỹ. Với nhà máy này người ta tính chi phí về nước cho mỗi gia
đình xê dịch từ 300- 500 Mỹ kim/ năm. Hiện nay các nhà máy khử mặn nước
biển để biến thành nước ngọt cung cấp 35% nhu cầu tiêu dùng ở Do Thái.
Người ta dự trù tỷ lệ nầy tăng lên 40% vào năm 2015 và 70% vào năm 2050.
Không
dân tộc nào gặp nhiều thử thách cam go như dân tộc Do Thái. Họ phải
chiến đấu chống với những người chung quanh đông đảo hơn gấp 100 lần để
sống bám trên mảnh đất gầy mà tổ phụ họ đã hứa như một mệnh lệnh từ
Thượng Đế. Họ phải đương đầu với sự khắc nghiệt của thời tiết nhất là
tình trạng thiếu nước ngọt nhưng thừa nước biển. Họ dùng cái thừa (nước
biển mặn) để bồi đắp cho cái thiếu (nước ngọt) bằng cách dùng nước biển
khử chất mặn thải ra biển. Về mặt kỹ thuật họ đã thành công và đi vào
sản xuất bằng những nhà máy khử mặn nước biển (desalination) với giá
thành rẻ. Bây giờ họ phải canh giữ cái nhà máy khử nước biển thành nước
ngọt này còn hơn giữ những lò nguyên tử mặc dù nước ngọt được chế biến
từ nước biển này được cung cấp cho người Palestine ở West Bank, xứ
Jordan láng giềng. Ai Cập cũng quan tâm đến loại nước ngọt chế biến từ
nước biển này. Do Thái sợ cái gì? - Sợ pháo kích từ phía nam Lebanon do
Hezbollah thực hiện hay từ dãy Gaza do Hamas gây ra.
Việc
biến nước biển thành nước ngọt là một đóng góp vô cùng lớn lao trong
đời sống nhân loại trên Địa Cầu trên 7 tỷ người. Vùng Phan Rang, Phan
Rí, Phan Thiết nên có một nhà máy khử nước biển mặn để biến vùng khô hạn
ở đây thành những vườn cây ăn trái, vườn nho, vườn sản xuất hoa có lợi
hơn làm thiết lập lò nguyên tử.
PHẠM ĐÌNH LÂN, F.A.B.I.
Việc biến nước biển thành nước ngọt là một đóng góp vô cùng lớn lao trong đời sống nhân loại trên Địa Cầu trên 7 tỷ người. Vùng Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết nên có một nhà máy khử nước biển mặn để biến vùng khô hạn ở đây thành những vườn cây ăn trái, vườn nho, vườn sản xuất hoa có lợi hơn làm thiết lập lò nguyên tử.
Trả lờiXóa