LỊCH SỬ TÊN GỌI ĐỊA
DANH TỈNH TÂY NINH
_______________________
I. ĐỊA DANH THIÊN NHIÊN:
1- Bà Đen là tên ngọn núi cách thị xã Tây Ninh
15 km, cao 986m, một điểm du lịch nổi tiếng. Cũng gọi là núi Bà.
Có 5 giả thuyết giải thích nguồn gốc của
địa danh này:
a/.Nàng Đênh quyết chí đi tu ở núi; cha mẹ ép
duyên; nàng trốn biệt tích; tên núi Bà Đênh nói chệch thành Bà Đen.
b/.
Cô Lý Thị Thiên Hương
yêu và định lấy một trí thức tên Lê Sĩ Triệt, nhưng bị tên công tử bắt cóc;
nàng tuẫn tiết; vua phong cho nàng là Linh Sơn Thánh mẫu.
c/.
Nàng Rê Đeng cùng chàng trai đắp núi thi; cuối cùng nàng thắng, tên
nàng trở thành tên núi;
d/.
Nữ Oa và Tứ Tượng thi
đắp núi; nếu Tứ Tượng thắng thì thành vợ chồng; cuối cùng nàng thắng; núi nàng
đắp trở thanh núi Bà Đen.
e/.
Mẹ Đen: Có một nữ thần
của người Khmer, gọi là “Mẹ
Đen” (Néang Khmâu), mà
hòn núi là bàn chân của bà nên trước đây thường gọi là Phnom Chơn Bà Đen (người
Việt gọi núi Chơn Bà Đen; hiện trên núi còn dấu chân này. Chúng tôi vừa đến đó
(2009) và thấy dấu chân này khắc trên đá, lớn hơn dấu chân người một chút.
Thuyết thứ 5 có lý nhất.
2- Cái Răng là rạch ở xã Thanh Điền,
huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.
Cái Răng còn là tên quận của
thành phố Cần Thơ; tên cầu trên
một tuyến đường ở tỉnh An Giang và là tên đường nông thôn ở huyện Năm Căn, tỉnh
Cà Mau.
Có ý kiến cho rằng Cái Răng do từ
Khmer Kran “cái cà ràng” mà ra. Chúng tôi nhận thấy:
k- thường biến thành cà (crème > cà rem) chứ không biến thành cái. Cái là “rạch” (ở Nam Bộ có
độ 300 địa danh mang từ Cái ở đầu); Răng: có lẽ do Kran.
3- Chàm là hang ở núi Bà Đen, nơi có
nhiều đồng bào Chăm vào nghỉ ngơi, ăn uống. Chàm là từ chỉ người, nướcChăm / Chămpa, vì trước đây họ từng ở
nơi này.
4- Rỏng Tượng là tên một dòng nước ở tỉnh Tây Ninh. Cũng
gọi là Láng Tượng.
Rỏng Tượng là đường khuyết sâu do voi đi
lại nhiều lần tạo nên.
5- Trao Trảo là gò ở
xã Cẩm Giang, huyện Gò Dầu.
Trao Trảo có lẽ là biến âm của tên
cây trao tráo,
là “loại cây cao 3-4m, thân không gai, trái dẹp, không ăn được, lá giống lá
quýt”.
Tiếp
theo là địa danh chỉ vùng.
6- Bàu Nâu là địa điểm ở huyện Gò Dầu.
Bàu
Nâu là cái bàu, ở đó có
cây nâu - một loại “dây leo, củ có màu đen dùng nhuộm vải”. Ở tỉnh Tiền Giang
có Giồng Nâu.
7- Bến Đổi là địa điểm nay thuộc xã Cẩm Giang,
huyện Gò Dầu. Cũng gọi Trường Đổi.
Bến
Đổi là “nơi trao đổi hàng
hoá giữa người Việt và người Chăm” lúc quân Pháp mới xâm chiếm vùng này [8].
8- Bến Kéo là địa điểm thuộc xã Long Thành, tỉnh
Tây Ninh, trên qưốc lộ 22, cách tỉnh lỵ 8 km. Vì trước kia đường sá khó đi nên
hàng hoá từ Sài Gòn chở đến đây phải tập trung lại để thuê xe bò chở tiếp.
Bến
Kéo là “bến tập trung xe
để kéo hàng”.
9- Bố Heo là địa điểm ở trong núi Bà Đen.
Bố
Heo có thể là khu có nhiều
cây bố, có heo rừng sinh sống ở đó. Cây bố cũng gọi là cây đay, là “cây trồng
thuộc loại thân cỏ, vỏ thân có thể tạo sợi dùng làm bao tải, dây buộc”. Có lẽ
Bố trong Bố Lá ở Bình Phước cũng là từ này.
10- Gò Dầu Hạ và Gò Dầu Thượng là hai khu vực thuộc huyện Gò Dầu.
Gò Dầu Hạ là “gò cây dầu ở phía dưới” và Gò
Dầu Thượng là “gò cây dầu ở phía trên”, Gò Dầu Hạ xa biên giới Việt
Nam-Campuchia hơn Gò Dầu Thượng..
Kế đến là tên công trình xây dựng.
II. TỪ CÔNG
TRÌNH XÂY DỰNG:
1- Dầu Tiếng là hồ nhân tạo ở xã Phước Minh, huyện Dương
Minh Châu, cách thị xã Tây Ninh 20 km, diện tích 27.000ha, chứa 1,5 tỉ mét khối
nước để phục vụ tưới tiêu cho tỉnh Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh. Dầu
Tiếng còn là tên huyện và thị trấn của tỉnh Bình Dương, được tách ra
từ huyện Bến Cát từ năm 1999.
Chúng tôi chưa biết nguồn gốc và ý nghĩa
của địa danh này.
2- Mộc Bài là cửa khẩu giữa Việt Nam và
Campuchia, ở huyện Gò Dầu, diện tích 21.284ha, có 180.000 lao động tại chỗ; nơi
trao đổi hàng hoá giữa hai nước.
Mộc Bài gốc Hán Việt, nghĩa là “cái thẻ hay
cái bảng bằng gỗ để làm dấu, chỉ ranh đất” (tablette).
3- Ông Năm Vinh là tên bến đò ở huyện Gò Dầu. Cũng gọi
là bến đò Cầu Sắt.
Ông
Năm Vinh là Trình Minh Vinh,
cha của Trình Minh Thế, độc quyền quản lý, thường xuyên có hai chiếc tàu đò
chạy từ Cầu Sắt đến Cẩm Giang và ngược lại [9].
4- Tha La là vùng đất ở xã An Hoà, huyện Trảng
Bàng. Tha La còn là tên ao ở
xã Tân Lý Tây, tỉnh Tiền Giang; tên xóm ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long, tên
chợ ở huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh
Long.
5-
Tha La gốc Khmer Sa-la, có hai nghĩa là “trường
học” và “chòi ở bên đường để khách nghỉ chân”.
6- Trại Bí là địa điểm gần núi Bà Đen, thuộc xã
Tân Phong, huyện Tân Biên, cách thị xã Tây Ninh 22km.
Trại
Bí là nơi mà những người
đi chặt củi, bứt mây rừng đem theo bí nấu canh, bỏ hột nên bí mọc khắp nơi.
7- Gò Chai là bến phà vượt sông Vàm Cỏ Đông,
thuộc huyện Châu Thành.
Gò
Chai là gò có nhiều cây chai mọc. Chai là loại cây
cho mủ đóng cục, nấu chảy để thắp, đốt.
8- Gò Kén là địa điểm ở xã Hiệp Tân, huyện Hòa
Thành.
Gò
Kén là gò đất rộng có mọc nhiều
cây kén, một
loại cây có lá xanh, trái chín như trái hồng đào.
III. ĐỊA DANH HÀNH
CHÁNH:
Sau cùng
là địa danh hành
chính.
1-
TÂY NINH:
Địa danh Tây Ninh hiện nay vừa là tên tỉnh
vừa là tên thị xã.
Tỉnh Tây Ninh hiện nay có diện tích
4.029,6km2, dân số 1.066.402 người (2009), gồm thị xã Tây Ninh và 8
huyện: Bến Cầu, Châu Thành, Dương Minh Châu, Gò Dầu, Hoà Thành, Tân Biên, Tân Châu,
Trảng Bàng với 8 thị trấn, 5 phường và 82 xã.
Thị xã Tây Ninh gồm 5 phường: 1, 2, 3, 4,
Hiệp Ninh và 5 xã: Bình Minh, Ninh Sơn, Ninh Thạnh, Tân Bình, Thạnh Tân.
Ở mùa thu năm 1836, Tây Ninh là một phủ của
tỉnh Gia Định, gồm hai huyện với 7 tổng và 56 xã thôn. Năm 1878, Tây Ninh là
một hạt của khu vực Sài Gòn, gồm 2 huyện Tân Ninh và Trảng Bàng. Đến năm ngày
1-1-1900, Tây Ninh trở thành một tỉnh của Nam Bộ [3].
Tỉnh Tây Ninh được thành lập lại ngày
22-10-1956 (tỉnh lỵ Tây Ninh). Ngày 3-1-1957, tỉnh Tây Ninh có 3 quận (Châu
Thành Tây Ninh, Gò Dầu Hạ và Trảng Bàng). Quận Châu Thành Tây Ninh gồm 6 tổng;
quận Gò Dầu Hạ gồm 3 tổng và quận Trảng Bàng chỉ có 1 tổng (Hàm Ninh Hạ).
Trong Mê-kông ký sự, người ta thấy ở Trung Quốc hiện giờ
cũng có địa danh Tây Ninh.
Tây
Ninh gốc Hán Việt, nghĩa
là “an ninh ở phía tây”.
2- Bến Cầu là huyện của tỉnh Tây Ninh, diện tích
233,3km2, dân số 59.000 người (2006), gồm thị trấn Bến Cầu và 8 xã:
An Thạnh, Long Chữ, Long Giang, Long Khánh, Long Phước, Long Thuận, Lợi Thuận,
Tiên Thuận. Tên huyện ra đời năm 1961.
3-
Bến Cầu là “bến nằm cạnh
cái cầu”. Chúng tôi chưa biết vị trí bến và cây cầu cụ thể nào ở đây.
4- Châu Thành là huyện của tỉnh Tây Ninh, diện tích
571,3km2, dân số 119.200 người (2006), gồm thị trấn Châu Thành và 14
xã: An Bình, An Cơ, Biên Giới, Đồng Khởi, Hảo Đước, Hoà Hội, Hoà Thạnh, Long
Vĩnh, Ninh Điền, Phước Vinh, Thái Bình, Thanh Điền, Thành Long, Trí Bình. Tên
huyện ra đời năm 1942.
Châu Thành đồng nghĩa với thành phố. Huyện
nào bao quanh thị xã hoặc thành phố thì gọi là huyện Châu Thành. Ở Nam Bộ hiện
có tất cả 11 huyện mang tên Châu Thành.
5- Dương Minh Châu là huyện của tỉnh Tây Ninh, diện tích
606,5 km2, dân số 99.500 người (2006), gồm thị trấn Dương Minh Châu
và 10 xã: Bàu Năng, Bến Củi, Cầu Khởi, Chà Là, Lộc Ninh, Phan, Phước Minh,
Phước Ninh, Suối Đá, Truông Mít.
Dương Minh Châu (1912-1947) quê tại làng
Linh Thạnh, tỉnh Tây Ninh, là Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Việt Minh tỉnh Tây
Ninh, đại biểu Quốc hội khoá 1, hy sinh trong kháng chiến chống Pháp.
6- Gò Dầu là huyện của tỉnh Tây Ninh, diện tích
250,5km2, dân số 135.300 người (2006), gồm thị trấn Gò Dầu và 8 xã:
Bàu Đồn, Cẩm Giang, Hiệp Thạnh, Phước Đông, Phước Thạnh, Phước Trạch, Thanh
Phước, Thạnh Đức.
Gò Dầu gốc thuần Việt, vốn có nghĩa là “gò
có nhiều cây dầu”.
7- Trảng Bàng là quận từ ngày 3-1-1957, gồm quận lỵ
Gia Lộc và 7 xã: An Hoà, An Tịnh, Đôn Thuận, Gia Bình, Gia Lộc, Lộc Hưng, Phước
Chỉ.
Hiện nay, Trảng Bàng là huyện của tỉnh
Tây Ninh, diện tích 337,8 km2, dân số 139.400 người (2006), gồm thị
trấn Trảng Bàng và 10 xã: 7 xã cũ và 3 xã mới: Bình Thạnh, Hưng Thuận, Phước
Lưu.
8-
Trảng Bàng được dùng làm
địa danh hành chính năm 1878. Trảng là
khoảng đất rộng giữa rừng hoặc giữa hai khu rừng. Còn Bàng có lẽ là cỏ bàng. Vậy
Trảng Bàng vốn có nghĩa là cái trảng có
nhiều cỏ bàng.
Còn theo Trương Vĩnh Ký, trước kia người Khmer gọi vùng đất này là Srôk Oknha Păn (xứ Ông
quan Păn).
Tiếp theo, chúng tôi thử giải mã một số tên
xã gốc thuần Việt.
9- Bàu Đồn là xã của
huyện Gò Dầu.
Bàu Đồn là “cái bàu ở gần một đồn lính”.
Chưa biết cụ thể đồn này tên gì.
10- Bàu Năng là xã của huyện Dương Minh Châu.
Bàu
Năng có lẽ có dạng gốc là Bàu
Năn, tức “bàu cỏ năn”, bị viết sai chính tả.
11- Bến Củi là xã của
huyện Dương Minh Châu.
Bến Củi là “bến chứa nhiều củi”.
12-
Cầu Khởi là xã của
huyện Dương Minh Châu.
Cầu Khởi có dạng gốc là Cầu Khỉ, chỉ chiếc cầu nhỏ và
không vững chắc.
13- Chà Là là xã của
huyện Dương Minh Châu.
Chà Là có lẽ là tên vùng có nhiều cây mọc chà
là nhiều ở vùng này.
14- Mỏ Công là xã của huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh. Chúng tôi chưa biết
nguồn gốc và ý nghĩa của địa danh này.
15- Suối Dây là xã của huyện Tân Châu.
Suối Dây có lẽ là “con suối chảy qua vùng
rừng có nhiều dây leo”.
16- Suối Đá là xã ở huyện Dương Minh Châu.
Suối Đá vì dưới lòng và hai bên suối có
nhiều đá lớn nhỏ.
17- Suối Ngô là xã của
huyện Tân Châu.
Suối Ngô có lẽ là “suối chảy qua vùng trồng
nhiều bắp”.
18- Truông Mít là xã của
huyện Dương Minh Châu.
Truông Mít là “vùng đất hoang, rậm, có
nhiều cây mít”.
Sau đây chúng tôi thử giải mã một số tên xã
gốc Hán Việt.
19- Cẩm Giang là xã của huyện Gò Dầu, có nghĩa là
“sông gấm”.
20- Long Chữ là xã của huyện Bến Cầu.Long Chữ có lẽ có
dạng gốc là Long Chử,
từ tổ Hán Việt, nghĩa là “bãi lớn/thịnh vượng”. Do người ta không biết nghĩa
của từ Chử và rất quen với từ Chữ nên viết sai.
21- Hảo Đước là xã của huyện Châu Thành. Hảo Đước có âm
gốc là Hảo Đức, có nghĩa là “đạo đức và tốt đẹp”. Có lẽ do kiêng húy Nguyễn
Huỳnh Đức hoặc Trịnh Hoài Đức, là những quan lớn ở thế kỷ 19 nên phải nói chệch.
22- Tân Bình là xã của thị xã Tây Ninh và huyện
Tân Biên, có nghĩa là “yên bình ở nơi đất mới”.
23- Tân Phong là xã của huyện Tân Biên, có nghĩa là
“gió mới”.
24- Thanh Điền là xã của huyện Châu Thành, có nghĩa
là “ruộng xanh”.
25- Trường Hòa là xã của huyện Hòa Thành, nghĩa là
“hòa thuận lâu dài”.
26-
Long Hoa: là tên do Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc của Đạo Cao Đài đặt ra
khi thành lập ngôi chợ lớn nhất tỉnh Tây Ninh, nằm trọng vùng Thánh địa, là nơi
sẽ diễn ra Đại Hội Long Hoa sau nầy theo giáo thuyết Đạo Cao Đài.
27-
Hòa Thành là do sự kết hợp hai xã Trường Hòa và Long Thành lại thành
lập một huyện hành chánh.
Trên đây chỉ là bước đầu khảo sát vài chục
địa danh ở tỉnh Tây Ninh. Khi điều kiện cho phép, chúng tôi sẽ tiến hành nghiên
cứu kỹ hơn, đầy đủ hơn địa danh ở vùng đất này. Tài liệu sưu tầm từ Lê
Trung Hoa
Hồ Xưa trình bày________________________________
bài rấtb hay
Trả lờiXóa