Quan võ đến 70 tuổi mới về hưu, còn quan văn 65 tuổi về hưu, là quy định từ thời Lê trung hưng. Sau đó, các quan đều nghỉ hưu khi đủ 65 tuổi, quy định này áp dụng cho đến triều Nguyễn.
Theo Lịch triều hiến chương loại chí của tác giả Phan Huy Chú, phần
Quan chức chí, thì từ thời Trần đã có lệ cho các quan về nghỉ hưu (trí
sĩ). Sử sách có ghi Nguyễn Tiến Ngô đã về trí sĩ rồi lại ra làm quan.
Thời Lê Thánh Tông, nhà vua có chỉ truyền cho các quan văn võ tại chức,
đến 65 tuổi, muốn về hưu, thì viết đơn gửi bộ Lại, kê tâu để thi hành.
Từ thời Lê trung hưng (tính từ Lê Thế Tông), thì lệ các quan văn võ đến
70 tuổi mới cho về hưu. Điều này cho thấy tuổi quan của quan lại thời
Lê là rất cao. Theo quy định, viên quan nào đến 69 tuổi thì cuối năm làm
tờ khải viện lệ bày xin, giao cho các quan bàn, trình lên Chúa Trịnh
xem xét, để có thể thăng chức tước khi về hưu.
Quan lại triều Nguyễn. Ảnh minh họa.
|
Một số trường hợp cụ thể có ghi lại về việc các quan trí sĩ đầu thời Lê
trung hưng, như Thái phó Nguyễn Thực, Thiếu phó Nguyễn Minh Triết đều
về hưu ở tuổi 80. Bồi tụng Thượng thư bộ Binh Nguyễn Khải về hưu khi đã
78 tuổi.
Thời Lê Dụ Tông, năm Vĩnh Thịnh thứ 15 (1719), ra quy định là quan võ,
thì nội giám từ đồng tri giám sự trở lên, 70 tuổi được cho về hưu, từ
lục phẩm trở xuống thì cho cáo lão. Định lệ cho quan văn cũng tương tự.
Thời Lê Ý Tông, năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1737), quan văn là Hàn lâm thừa chỉ
Trần Ân Triêm 65 tuổi xin về hưu. Chúa Trinh vương Trịnh Giang chuẩn y
cho. Từ đấy, các quan văn được về hưu từ 65 tuổi.
Đến đời Lê Hiển Tông, các quan nhiều người muốn xin về hưu sớm. Cả hai
ban văn võ đều dâng tờ khải xin được về hưu ở tuổi 60. Chúa Minh vương
Trịnh Doanh xem tờ khải không đồng ý, quyết định các quan phải đến 64
tuổi mới được viện lệ xin nghỉ.
Đến cuối đời Hiển Tông, các quan văn ngoài 60 tuổi nhiều người chán
cảnh làm quan. Khi đó, chúa Tĩnh Vương Trịnh Sâm ra lệnh tuân theo lệ
cũ, các quan 70 tuổi mới được nghỉ hưu.
Sang đến chúa Đoan Nam vương Trịnh Khải, Tể tướng Bùi Huy Bích dâng tờ
khải xin lại theo lệ gần đấy, cho các quan 65 tuổi được nghỉ việc để tỏ
ra ưu đãi tuổi già. Chúa nghe theo.
Phan Huy Chú có bình luận, đầu thời Lê Trung Hưng, việc về hưu chưa
được coi là vẻ vang, cho nên có lẽ vì vậy mà các quan cố gắng làm việc
dù tuổi đã già. Theo truyền thống thời Lê, các quan đã về hưu mà được
gọi ra làm việc lại (khởi phục) thì coi như là có đặc ân.
Lệ thời ấy, là ngày một quan về hưu, thì các quan trong triều đình đều
có thơ mừng, lần lượt viết vào bức lụa, bày tiệc tiễn đưa. Từ khi Yên
quận Phạm Công Trứ (1600-1675) 70 tuổi về hưu, có thơ lưu giản với các
quan đồng triều, có đến 50 người ở các phủ, bộ, tự, khoa, đạo, viện họa
thơ viết lên trướng lụa, uống rượu tiễn trên giang đình, từ đó về sau
thành lệ.
Từ thời Lê Dụ Tông, niên hiệu Bảo Thái năm đầu (1720) về sau, khi các
quan đủ hạn tuổi về hưu, vua chúa ban cho sắc thư, các quan tổ chức khen
mừng thành tích, tiễn đưa xe ngựa nhộn nhịp, được cho là “làm câu
chuyện hay trong buổi thái bình”.
Sang đến triều Nguyễn, vẫn giữ quy định các quan đến 65 tuổi thì về
hưu. Tuy nhiên, với các chức quan to, có lẽ việc áp dụng cũng không chặt
chẽ mà tùy thuộc vào hoàn cảnh.
Nguyễn Công Trứ, vừa là quan văn, vừa là tướng võ, đến năm 1847, niên
hiệu Tự Đức năm thứ nhất, ông 69 tuổi mới nghỉ hưu. Đông các Đại học sĩ
Cao Xuân Dục, Tổng tài quốc sử quán, năm 1913, đến 70 tuổi mới về hưu.
Năm 1933, khi vua Bảo Đại quyết định cải tổ bộ máy triều đình, cho cả 5
thượng thư về nghỉ hưu thì Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Hữu Bài đã 70 tuổi.
Tuy nhiên lịch sử vẫn ghi nhận những trường hợp ngoại lệ đặc biệt. Như
cụ Đoàn Tử Quang, người huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh, năm 1900 thi đỗ cử
nhân khi đã 82 tuổi, vẫn được đặc cách bổ dụng làm Huấn đạo huyện Hương
Sơn, rồi huấn đạo huyện Can Lộc. Đến năm 85 tuổi, cụ xin về hưu để phụng
dưỡng mẹ già.
Còn Khâm sai đại thần Trần Đình Túc, được cho nghỉ hưu sau khi thương
lượng với Tướng Pháp Henri Rivière sau trận đánh thành Hà Nội lần thứ 2
(1882), khi ông 64 tuổi. Đến khi vua Tự Đức mất, vua Hiệp Hòa nối ngôi,
xảy ra sự kiện quân Pháp chiếm cửa Thuận An, triều đình Huế lại cử Trần
Đình Túc ra làm Khâm sai toàn quyền cùng với Nguyễn Trọng Hợp đi hòa
nghị, để ký Hòa ước Quý Mùi (còn gọi là Hòa ước Harmand - 1883).
Trong khi đó, hai vị quan lớn của triều Nguyễn có sự cộng tác đắc lực
với người Pháp là Nguyễn Thân (Thượng thư Bộ Lại) và Hoàng Cao Khải
(Thượng thư Bộ Binh), sau khi tranh chấp quyền lực với nhau, bị cùng
được cho về hưu năm 1903, khi ông Thân mới 58 tuổi, ông Khải mới 53
tuổi.
Lê Tiên Long
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét